Thứ Hai, 7 tháng 1, 2019


                         
    SẮC HƯƠNG…TÌNH HUẾ
Lê Quang Kết
     Huế là đất một chuyện tình. Lịch sử hành phương Nam của tiền nhân gặp khúc quanh chặng đèo Ngang - Vua Trần anh minh quyết định gả con gái yêu cho Chiêm vương đổi lấy hai châu Ô và Rí (Lý). Và Huyên Trân công chúa đã “ngàn dặm ra đi” - vạch đường thiên lý để Đại Việt hôm nay dài mãi tận đất mũi Cà Mau. Tình Huế! Ôi đẹp và thơ! Chàng trai Hà Tĩnh Huy Cận thuở trai trẻ đã từng theo học Quốc Học - Huế; nhân ngày kỷ niệm 100 năm thành lập trường nhà thơ viết gửi Huế yêu: “Huế Huế ai bày chi xứ Huế/ Mà tình vương mãi dứt không ra”. Tôi cũng là đứa con Huế tha phương - dễ mấy chục năm trời. Hình như những kẻ xa quê đều có một góc yêu thương nào đó để nhớ và thôi thúc bước chân về. Tình Huế - với tôi cũng vương mãi như lời thơ Huy Cận.
     Tình Huế - tính cách Huế xưa nay đó là sự hài hòa giữa con người với tự nhiên. Huế hài hòa trong kiến trúc mà nhiều người gọi là thành phố của “Nhà vườn Làng vườn Chùa vườn”. Những nhà vườn tiếng tăm vẫn hiện hữu trong lòng những ai đến Huế : Vườn An Hiên ở Kim Long; vườn nhà cụ Đô dưới Gia Hội; hay Lạc Tịnh viên phủ thất ngài Hồng Khẳng xưa ở 65 Phan Ðình Phùng - Huế, nhà vườn công chúa Ngọc Sơn, nhà vườn Gia Hưng Vương…Rồi làng vườn: Phường Đúc, Kim Long, Bao Vinh, An Lăng, Chợ Cống…vẫn còn đó sừng sững - bảo lưu truyền thống đất vườn Huế. Câu thơ của Thi nhân Hàn Mặc Tử “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” có dáng dấp một Vĩ  Dạ vườn. Trăm ngôi chùa Huế mỗi chùa là mỗi sắc vườn - người lữ hành nặng gánh lo toan một lần vãn cảnh nghe lòng thanh thản nhẹ gánh xua đi bao nỗi muộn phiền - thấp thoáng một chút lắng sâu từ tâm hỉ xả với đời với người. Con người cảnh vật trong kiến trúc Huế không thách đố thiên nhiên. Huế không có và không thể có những công trình đồ sộ chọc trời như Sài Gòn. Nếu ai đó có ý nghĩ biến Huế thành đô thị siêu tốc thì điều đó vô nghĩa và ảo tưởng với nghệ thuật kiến trúc. Hình như chủ nhân vườn Huế chẳng quan tâm nhiều đến lợi ích kinh tế. Họ chăm chút mảnh vườn để được sống bình dị ung dung hòa mình với thiên nhiên cây cỏ - tâm cảm lạc quan bình thản thấp thoáng nét tự tại đậm chất nhân văn Huế.
     Tình Huế là nhẹ nhàng trong lựa chọn sắc màu. Người Huế chúa ghét những mảng màu lòe loẹt. Họ thích gam màu nhạt. Màu nặng như đỏ chót xanh lè vàng rộm đen thui tím ngắt phản cảm với tâm hồn Huế. Sắc thái của tình Huế là xanh lơ vàng mơ hồng nhạt hay tím phớt… Nếu giờ đây phụ nữ thích biến tấu hoa trên áo dài thì người Huế sẽ không thích hoa to hoa tương phản mà là hoa nhỏ - chỉ điểm nhẹ vài bông đậm hay nhạt hơn màu nền áo một chút chỉ thế thôi! Tà áo dài thướt tha chiếc nón bài thơ dịu ngọt đã theo cô gái Huế dù đi đâu về đâu? Tan trường tóc thề trước gió vành nón nghiêng che trắng cả Tràng Tiền mấy nhịp. Trong trang phục áo dài truyền thống ấy cô gái Huế không mặc quá dài hoặc quá ngắn. Đường xẻ tà ở hông cũng vậy không quá cao để hở hang hớ hênh nhưng cũng không che kín bịt bùng. Đừng tưởng gái Huế không ưa khoe những đường nét quyến rũ của cơ thể trước đàn ông chỉ có điều họ muốn phô một cách kín đáo tế nhị mà thôi.
     Ẩm thực của tình Huế là gia vị. Các món ăn Huế đều thế gia vị là thứ tối cần. Nhiều thứ nhưng mỗi thứ một ít thôi phải biết gia giảm mới thiệt là Huế. Có nhà ẩm thực đã liệt kê tới mười mấy thứ trên đôi quang gánh của o cơm hến Huế. Nhiều món ăn dân dã Huế đã trở thành văn hóa ẩm thực  của cả nước: bún bò, bột lọc, bánh khoái, bánh canh, cơm hến, bánh nậm bánh bèo… Những đứa con Huế xa quê đi tới mô cũng cố giữ ẩm thực mang hương vị quê nhà mà nghe đau đáu nỗi nhớ quê xa. Người Huế thích ăn cay. Đúng bữa cơm Huế không thể thiếu ớt. Cay mới thích - mới khoái khẩu. Người ta kể có Huế Kiều xa xứ bay về ngồi ăn một tô bún bò An Cựu vừa ăn vừa hít hà xuýt xoa mồ hôi mồi kê tháo ra ướt cả áo miệng cười hả hê - đã quá Huế ơi!
     Tình Huế là chừng mực trong giao tế ứng xử thường nhật. Lịch thiệp ý tứ nhưng trân trọng chân tình với người quen bạn bè. Ngày giỗ tết hội hè gặp gỡ bạn thử quan sát xem? Không thân không sơ không lạnh nhạt không vồ vập - tất cả là nhẹ nhàng ý vị. Mừng vui ngày hạnh ngộ họ cố nín trong lòng chẳng lộ ra ngoài. Gặp nhau mà ôm chầm lấy nhau rối rít la hét ầm ỉ làm toáng cả lên không phải là tính cách Huế. Mời khách mời bạn dùng bữa cũng thế thôi thiệt tình mời một hai lần. Không chào mời theo kiểu lấy lòng và chẳng ồn ả nhiều lời để thành khách khí sáo rỗng - ngoài miệng thì cố đẩy đưa chiếu lệ mà bụng chẳng ưng ý tí nào.
     Nghĩa tình với bà con bầu bạn - đó là nét tính cách giàu chất nhân văn của người xứ Huế. Đi đâu trên khắp đất nước và cả ở Âu, Mỹ, Phi, Úc…cũng gặp Hội hè đồng hương Huế, Huế tha phương, Huế hiếu học, Ái hữu Huế, Yêu Huế, Nhớ Huế… của bao đứa con lưu lạc. Người Huế tứ xứ “tha hương ngộ cố tri” - họ tụ họp nhau để nhớ về quê hương “gừng cay muối mặn”. Mỗi lần hội ngộ là dịp những đứa con Huế xa xứ hàn huyên cho thỏa nỗi niềm tháng ngày xa quê và cũng là cơ hội gắn kết bền chặt giữa bà con và quê hương. Tới đây nghe những lời chân tình mới thấy hết được nỗi lòng của người xa quê. Họ vui mừng hào hứng khi quê hương vươn lên phát triển và tâm  như  lửa đốt mỗi khi nghe tin quê nhà thiên tai bão lũ. Suốt tháng năm qua ít hay nhiều, người Huế đã luôn ấm lòng bởi những sẻ chia của bà con Huế trên mọi miền đất nước và của kiều bào. Giai điệu và ca từ nghe day dứt nỗi nhớ Huế của bao đứa con Huế xa: “Lòng đã hẹn thề sao chưa về thăm Huế người ơi/ Áo tím ngày xưa tím vầng thơ tím cả mong chờ/  Một dòng sông Hương vẫn còn thương vẫn nhớ câu hò/ Ai chờ ai một bóng con đò chiều phai rưng rức bờ vai…”(Tình Huế - Nguyễn Ngọc Thạch).
     Tình Huế là đời sống nội tâm sâu lắng không ồn ào khoa trương. Khúc Nam Ai Nam Bình; làn điệu hò Mái Nhì Mái Đẩy trên dòng Hương giang chính là nét tĩnh tại nội tâm của tâm thức Huế. Có ai đó bảo rằng: Giai điệu âm nhạc Chăm đã để lại nét buồn thương cảm trong tâm hồn Huế - hay màu tím  kia là màu buồn Huế. Phải vậy chăng? Người ai mà không buồn? Buồn Huế không hẳn buồn lòng mà còn là cái lặng thầm sâu kín tận đáy lòng. Có nhà thơ đã gọi tím Huế là màu của yêu thương trong sáng và thầm kín. Với phụ nữ Huế tím còn là màu của đức hạnh thủy chung. Vả chăng nếu có buồn cũng là chuyện muôn đời - hỉ nộ ái ố sầu bi - nhưng chắc rằng buồn Huế không là nỗi buồn của bi lụy đau thương…Tôi cũng là đứa con Huế hành phương Nam theo dấu cha ông…Nỗi nhớ quê nhà tháng năm chập chờn mộng mị. Nhiều lúc nhớ Huế đến quay quắt - ở đó mối tình đầu của tôi, bao năm em vẫn khắc khoải đợi chờ còn người xưa cứ trôi xa biền biệt…Chao ôi! Nhớ Huế…Hẹn Huế ngày về nợ Huế một đời - nơi đó có…quá nhiều…kỷ niệm yêu thương và nên thơ…để nhớ…Bây chừ bạc tóc vẫn thủy chung yêu Huế yêu em!
      Người và đất Huế là đề tài muôn thuở cho văn học nghệ thuật. Tức cảnh say người sinh tình. Có lẽ thế nên văn nhân thưởng lãm Huế đã để lại nhiều tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ xưa nay - kể sao nói sao cho hết. Người Huế triệu triệu lần cảm ơn tao nhân mặc khách đã khắc họa tuyệt vời hình tượng núi Ngự sông Hương trên trang sách trang đời. Thi sĩ quá cố người Quy Nhơn gốc Quảng Bình Hàn Mặc Tử đề thơ “Đây thôn Vĩ dạ” mãi treo trên lầu cao. Nỗi lòng tha thiết, ước vọng khôn nguôi của thi sĩ đối với thiên nhiên Vĩ Dạ và cô gái Huế gần mà xa thực mà mơ; sâu nặng hơn là một tình yêu đơn phương trong sáng tự trong sâu thẳm tâm hồn của chủ thể cảm xúc. Dẫu trong cảnh ngộ hết sức nghiệt ngã của một con người tuyệt vọng vì bệnh hoạn, một người đang phải cách ly bạn bè, người thân thích và bất lực nhìn cả thể phách lẫn linh hồn mình đang rệu rã, nhưng đôi mắt người ấy vẫn trong trẻo ngắm nhìn cảnh sắc thiên nhiên tuyệt mỹ, trái tim người ấy vẫn giàu yêu thương và ước vọng…Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, con thuyền ai neo đậu bến sông trăng, cái màu trắng nhìn không ra của áo em như đưa hồn ta đi về miền sương khói Vĩ Dạ một thời thưa vắng tìm lại bóng người xưa, thương cảm nhà thơ tài hoa đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm cảnh trong “Đây thôn Vĩ Dạ” cứ thế…lưu luyến…cứ thế… vương vấn mãi trong lòng…Người xưa đầu rồi hay chỉ là hư ảo!?
      Tình Huế là quà tặng của thiên nhiên dành cho thi nhân. Nhà thơ nào tới Huế đều có thơ về Huế như để trả ơn mảnh đất đã khơi nguồn thi hứng cho mình. Huế và tôi yêu bài thơ “Tạm biệt Huế” của nhà thơ quá cố Thu Bồn. Bài thơ như được chắp cánh - thơ nhạc giao duyên - với giai điệu tuyệt vời của nhạc sĩ Xuân An. Sông Hương và người sông Hương thêm lần cảm ơn và ghi khắc vào tâm hai câu tuyệt bút - có người nói hộ mình nghe khiêm cung lòng nhẹ hẳn đi “Con sông dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Khổ thơ cuối chầm chậm đi cùng giai điệu chạm vào tim: Huế ơi, tạm biệt nhau mà trong lòng còn Huế/ Hải Vân ơi đừng tắt ngọn sao khuya/ Xin tạ từ với chiếc hôn thầm lặng/ Anh trở về hóa đá phía bên tê”. Câu cuối bài thơ tác giả mô phỏng hình tượng Vọng phu của cổ tích và thêm nét sáng tạo khẽ lay động nỗi nhớ khắc khoải dằng dặc của bao người đi và đến với Huế yêu. Thi sĩ không là người Huế còn tôi đứa con tha hương mỗi lần về…rồi đi lòng nghe nặng trĩu mong ngày được trở lại cố quận dấu yêu.
      Ước mơ tự bao đời về công lao mở đất của vị Mẫu Nữ Thần Hoàng bất tử, người Huế đã xây dựng đền thờ tượng đài uy nghi Huyền Trân Công chúa trên núi Ngũ Phong. Huế còn dành riêng cho công chúa một trung tâm chuyên nghiên cứu giải mã, bổ sung, phản biện, hiệu đính sử liệu về Huyền Trân. Lễ hội Công chúa được người dân Huế hàng năm khói hương tâm thành, rưng rưng chiêm bái nhớ về Người và một thời Hào khí Đông A sáng ngời sách sử - sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa. Bước chân huyền thoại ấy, công lao cao cả ấy khiến hậu thế tương cầu đồng cảm cúi đầu ngưỡng mộ, và người Huế cũng đã phản biện xác tín về những nghi vấn lịch sử phi lý oan nghiệt cay đắng đối với cô công chúa vâng lệnh vua cha xuất giá. Bà đã ngàn dặm ra đi vào xứ sở Chăm nhưng để lại mảnh đất Ô, Rí ngàn dặm - Thuận Hóa ngày nay; mảnh đất hòa hiếu ấy như con thuyền phù sa đưa cả dân tộc tiến ra biển cả, tiến xa về Đất Mũi - Cà Mau…
      Sau khi quy hồi kinh đô Thăng Long, Huyền Trân công chúa đã xuống tóc quy y cửa Phật, gác lại mọi chuyện thế gian. Người đời biết nàng đau buồn và tiếc thương cho sự ra đi đột ngột của chồng nên gởi thân nương nhờ cửa Phật, một lòng tòng phu mặc kệ mọi nghi vấn thị phi ngoài kia. Gần một năm mặn nồng cùng chồng, bà hiểu được phần nào tại sao vua cha lại gả nàng cho Chế Mân - một vị vua đức độ và tài năng, chứ chẳng phải là phường man di, dị tộc như thiên hạ dị nghị, người Huế vẫn tiếc thương nàng - cô công chúa lầu son hồng nhan bạc mệnh…Cảm thức của người dân Huế hôm nay không còn là nỗi niềm chua xót nghiệt ngã mà là sự đồng cảm về đức hy sinh cao quý cùng hạnh bố thí của người con gái trong lầu son gác tía truân chuyên quên mình vì đất nước. Tấm gương của Huyền Trân thanh khiết, nàng hóa thân trở về với đạo sống bình đạm hiền hòa và dung dị của một nữ tu hạnh bồ tát, làm tấm gương đức hạnh thủy chung sáng soi tới muôn đời…
      Chàng trai Hà Tĩnh đã mang tình Huế đi đến cuối đời và trước đó là chàng trai xứ Quảng. Anh vượt đèo Hải Vân  ra thi để rồi “Học trò trong Quảng ra thi/ Thấy cô gái Huế chân đi không đành”. Tán tỉnh để chinh phục trái tim một cô gái Huế cũng khó - thật khó. Tôi có người bạn  lấy vợ Huế kể chuyện xưa: Hồi học ở ngoài phải lòng một cô gái Huế mất ba năm để làm quen và thêm ba năm cho tình yêu hò hẹn vị chi là sáu năm để cưới nàng làm vợ. Năm rồi vợ chồng anh tròn ba mươi năm ngày cưới. Giọng hóm hỉnh anh mượn chuyện nhà hiền triết xưa Socrate để nói về người vợ yêu quý của mình. Nhà triết học tài danh Socrate có một bà vợ dữ dằn độc ác. Bà thường mắng nhiếc thậm tệ và thậm chí đánh  chồng bằng đôi đũa làm bếp - kể cả khi có mặt bạn bè ông. Bao năm theo thầy dùi mài kinh sử có người học trò yêu đã phải buột miệng chất vấn thầy : “Bạch thầy! Con phải thế nào đây? Theo ý thầy con có nên lấy vợ hay không?”. Socrate mỉm cười thốt lên: “Trong mọi trường hợp con đều phải lấy vợ nếu gặp người vợ hiền con sẽ là người hạnh phúc còn nếu gặp phải một bà vợ ghê gớm ác độc thì con sẽ là  một triết gia…”. Rồi anh cười hả hê đắc ý: - Nếu trên đời này các bà vợ đều là người Huế thì sẽ chẳng có đấng mày râu nào thành triết gia cả. Không hiểu lúc đó nhân loại sẽ ra sao?

Lê Quang Kết
 DĐ : 0907. 615. 510
Căn cước công dân số 04605400015- Ngân hàng BIDV số tài khoản: 64210000025491
Chung cư Lê Thành B2.08.08 Khu phố 3, Phường An Lạc, Quận Bình Tân, Tp. HCM


 SẮC MÀU… D’RAN DẤU YÊU
Lê Quang Kết
      Người bạn thuở ấu thơ nhắn tôi về D’ran - nơi một thời dấu yêu nhiều kỷ niệm trong tôi…Ừ thì về, mình về với D’ran - về với thị trấn yên bình có nhiều ngôi nhà tựa lưng vào vách núi - về với những con phố nhỏ sương mù che khuất người đi…D’ran giờ là thị trấn nhỏ của huyện Đơn Dương, nếu đi từ Sài Gòn lên tới ngã ba Phi Nôm rẽ phải chừng 30 km còn nếu từ  Đà Lạt bạn có thể chạy về Cầu Đất qua đèo D’ran là bắt gặp phố núi nằm yên bình khiêm tốn nhưng ẩn chứa bao điều thú vị khiến lòng người đắm say…
      Chúng tôi từ Đà Lạt nên chọn đường Cầu Đất, Trạm Hành - trên chiếc xe gắn máy tàng chúng tôi xuôi dốc với cung đèo D’ran. Độ dốc đèo không cao so với Sông Pha hay Prenn nhưng cảnh quan quyến rũ tuyệt đẹp - một chút êm ái pha với vẻ hoang dại với tiếng thông reo rì rầm chen hoa lá cỏ cây lung linh sắc màu - một khoảng không gian khoáng đạt với trà cà phê xanh bạt ngàn nhưng vẫn còn đó sự tinh khôi mộc mạc của rừng núi hoang sơ. Hành trình từ Ninh Thuận đến Đà Lạt mọi người đã lựa chọn đường từ Thạnh Mỹ qua Phi Nôm n đèo Prenn bây giờ lại có thêm lộ 27C nối Đà Lạt- Nha Trang làm cung đèo Dran gần như chìm vào lặng câm không còn phổ biến như xưa nữa. Bạn tôi bảo rằng: Đèo D’ran là điểm nhấn tuyệt vời của thị trấn, ai đã yêu D’ran và rời xa thị trấn núi này đều xem cung đèo là chỗ dựa là điểm tựa để quay về mỗi bận lòng bề bộn bất an. Và giờ này tôi chợt hiểu - vì sao tranh anh Đinh Cường người họa sĩ tài danh từng tạm cư ở D’ran lại vẽ nhiều tranh và phác thảo về D’ran và cung đèo D’ran…Thị trấn hiện ra sau những bờ giậu hàng rào thưa vắng là vườn hồng và dã quỳ với sắc vàng pha lấm chấm màu đỏ vàng cam.
      Tôi yêu D’ran và cung đèo D’ran - đã bao lần tôi cùng bạn bè người thân từ Đà Lạt trở về cố quận hay từ Phan Rang lên đèo Sông Pha (Krông Pha) ngang qua cung đường nhưng cảm giác vẫn như lần đầu nôn nao hoài niệm và bồn chồn đến nao lòng. Quay lại thời gian ngày Alexandre Yersin phát hiện Đà Lạt - thời đó D’ran là nơi được mọi người quan tâm nhất, từ đây gắn với vùng trà Cầu Đất hay đèo Sông Pha nhiều khúc gấp cùi chỏ hay khuỷu tay vẫn luôn là con đường hút hồn du khách bởi vẻ đẹp thuần khiết nhất của núi rừng cao nguyên. Giờ đã khác xưa nhưng vẫn còn đó bảo lưu một cảnh quan đã in sâu vào tâm khảm bao người…Ôi D’ran yêu dấu của tôi!
      Người thị trấn nhỏ giờ đang bận rộn hơn bởi chuyện mưu sinh - D’ran vào vụ của rau hoa cây trái. Người bạn thổ địa xứ này chuyện cùng tôi: D’ran giờ đang là vệ tinh của rau hoa Đà lạt - Đà Lạt có thứ gì thì D’ran đều mang thức ấy. Cư dân D’ran quy tụ người tứ xứ, nhiều nhất là người Bình Định, ngày tới đất này họ không một tấc đất cắm dùi giờ là chủ nhân nhiều vườn ruộng rau hoa bốn mùa xanh tươi hoa trái.  Đặc điểm chung của cư dân trên đất D’ran là cần cù chịu thương chịu khó, trên con đường phố nhỏ chật nhìn lặng thinh êm ả nhưng ra vườn ruộng lại có không khí náo nức hối hả đến bất ngờ. Ruộng hoa có tới mấy chục thứ: nào là cúc, nào là huệ, ly ly, đồng tiền, lay ơn... cho tới dòng hoa cao cấp như: Nữ hoàng xanh, cẩm chướng, phong lữ, dã uyên thảo…có cả oải hương chỉ có ở Đà Lạt và xứ người…Rau D’ran chẳng thua em kém chị và mùi vị cũng ngon nức tiếng. Những chuyến xe tải chở rau hoa về Đồng Nai, Sài Gòn, Thủ Dầu Một hay ngược ra Phan Rang, Phan Thiết, Nha Trang và tới phố xa Tam Kỳ, Hội An, Đà Nẵng…Chàng trai trẻ kỹ sư nông học Nguyễn Trần Vũ Long sôi nổi tiếp chuyện chúng tôi: D’ran và Đà lạt có độ cao và thổ nhưỡng khác nhau đôi chút...nhưng hương vị thì một chín một mười, các loại rau củ quả hữu cơ phổ biến như dâu tây, cải bó xôi, khoai tây, cà chua, khoai lang mật... bà con và du khách thưởng thức đã khẳng định ẩm thực rau củ quả D’ran có hương vị riêng mang thương hiệu đặc trưng của Đơn Dương từ lâu nay...
      D’ran còn là điểm đến thủy điện Đa Nhim - công trình đã tồn tại hơn 50 năm (khởi công tháng 4/1961, hoàn thành tháng 12/1964 do Nhật Bản thiết kế thi công) - một thắng cảnh làm bao người ngẩn ngơ ngắm nhìn mỗi khi có dịp đi qua cung đèo Ngoạn Mục hay đèo Dran. Ở đáy hồ có một đường hầm thủy áp dài 5 km xuyên qua lòng núi nối tới hai ống thủy áp bằng hợp kim dốc 45°, dài 2040 m và đường kính trên một mét mỗi ống. Nước từ hồ Đa Nhim theo hệ thống thủy áp này đổ xuống tới hệ thống 4 tuốc bin ở sông Krông Pha (Sông Pha) với độ cao 210 mét. Tất nhiên muốn tham quan phải được sự cho phép của cấp có thẩm quyền, bạn và khách du sẽ chứng kiến công trình hồ nhân tạo ở độ cao 1000 mét rộng tới 12 km cao 38 mét và dung tích hơn 165 triệu m3 nước cung cấp nước cho Đa Nhim. Người Nhật đã tạo đập thủy điện Đa Nhim hài hòa với cảnh quan thiên nhiên chung quanh ... Mây trời, non nước, cỏ cây và hoa lá cùng nhau tô điểm nên vẻ đẹp thơ mộng, lãng mạn, huyền ảo và có chút bí ẩn cho thị trấn Dran.
      Buổi sáng D’ran có điều thú vị - đó là tách cà phê nóng của quán nhỏ lưng chừng đồi. Ôi thật tuyệt vời nhâm nhi cà phê thị trấn núi. Chủ quán cho hay: Cà phê tôi tự tay chọn lựa và rang xay - trộn cả hai thứ Robusta (vối)Arabica (chè) theo một tỉ lệ bí truyền. Anh biết không? Cà phê vối đậm chất cafeine dễ làm mất ngủ còn cà phê chè nhẹ hơn cafeine nhưng lại cho hương vị khó quên…Mọi thứ tôi đều chế biến thủ công chứ không đụng chạm đến công nghệ máy móc…Ly cà phê nơi thị trấn D’ran với ông chủ quán cầu toàn tỉ mẫn cho ra mùi vị ngon đến thế hay là Arabica được trồng ở độ cao trên 1000 mét của người D’ran làm người khách phương xa phải ngập ngừng dừng bước...
    Tiếc cho D’ran dấu yêu của tôi - nơi ngày trước có cây cầu thiết lộ tuyệt đẹp và chỉ dăm ba cái của ngành đường sắt trên thế giới đã bị phá bỏ (nhiều người đồng tình nếu còn sẽ là một địa chỉ tham quan ngoạn mục). Giờ chiếc cầu bánh răng cưa chỉ còn lại hai trụ nằm chênh vênh giữa dòng sông Đa Nhim. Để tàu lửa có thể vượt độ cao trên 1500 mét với độ dốc trên dưới 12% người ta phải thiết kế hệ thống bánh trục răng cưa ở giữa song song với đường ray để lên xuống đèo an toàn tuyệt đối. Trên đường về D’ran ngày hôm trước người hướng dẫn đã chỉ cho tôi một số dấu tích còn lại của đoạn đường sắt độc đáo này - đó là ga Eo Gió nay đã thành phế tích - một trụ cầu đường sắt cao chừng 30 mét đứng chơ vơ giữa khe núi và một con đường hầm xuyên núi dài hơn 100 mét may ra đến giờ vẫn còn nguyên vẹn...
      D’ran dấu yêu - nơi tôi đã tạm cư gần 4 năm thời còn tiểu học - nơi sương giăng kín mỗi sáng mỗi chiều - nơi những vườn hồng chín mềm rướm mật, cầm lên nhẹ tay và cho vào miệng mát ngọt tới tâm can - nơi những con người chân chất quanh năm bầu bạn thân thiết với núi rừng...Bạn bè tôi ngày đó giờ như chẳng còn ai, bao kẻ bỏ D’ran mà đi và tôi cũng thế, bao năm cứ lần la...lần lữa...hẹn về rồi ra trễ hẹn bao lần. Tôi được biết thêm D’ran đang là thị trấn nằm trong huyện Đơn Dương - huyện thứ 6 của cả nước đạt chuẩn huyện nông thôn mới (3/9/2015)... Thu nhập toàn huyện bình quân đầu người đến năm 2017 đạt xấp xỉ 50 triệu đồng, tăng gần 3 lần so với năm 2010; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 1,5%, trong đó vùng dân tộc thiểu số chỉ còn 3%. Và D’ran dấu yêu của tôi có tỉ lệ bình quân cao hơn tỉ lệ chung toàn huyện từ 4 đến 5%...Ôi thị trấn núi nhỏ bé - niềm tự hào kiêu hãnh của tôi!
      Và bất ngờ hơn với D’ran - bây giờ ngồi đây tôi lại được đọc một tư liệu cũ - dòng cảm xúc của cố nhạc sĩ tài hoa đất Huế Trịnh Công Sơn viết cho người yêu Ngô Vũ Dao Ánh trên căn gác gỗ của Họa sĩ Đinh Cường ( anh mất ngày 8 tháng 1 năm 2016) - chỗ tôi đang ngồi với D’ran và chỗ ngụ cư của tôi năm xưa ấy - thư anh viết: “Anh đến đây thì anh Cường  chưa về. Anh leo lên căn nhà gỗ sàn - chung quanh là núi cao, là mây mù, là suối reo, là giá rét, là quạnh quẽ. Anh ngồi trong căn phòng riêng của anh Cường, chung quanh những bức tranh mang hình ảnh màu sắc của núi đồi này vừa lên xong. Và cơn mưa xám mù chợt đến... Ngoài kia trời chỉ còn thấy viền núi đen cao ngất bao quanh. Tiếng suối chảy buồn... Cuộc sống ở đây bình an dễ chịu. Có lẽ rồi anh cũng kiếm cách về đây, làm đồn điền và xa lánh những đua chen vô ích. Tìm một hạnh phúc nào nhỏ nhất cho vừa đời mình. Làm một căn nhà sàn với bàn ghế bằng những gốc thông ghép lại, sống rất gần với gỗ với cây với núi rừng với đất. D’ran...D’ran ơi...dấu yêu trong tôi đẹp dung dị đến lạ thường! Tôi yêu…D’ran!

Lê Quang Kết
ĐT: 0907 615 510  Email:  lequang54@gmail.com
Chung cư Lê Thành B2.08.08 Khu phố 3 Phường An lạc, Quận Bình Tân, Tp.HCM
Căn cước công dân số 04605400015 - Ngân hàng BIDV số tài khoản: 64210000025491



Truyện ngắn
BẾN ĐỖ DIỆU KỲ
 Lê Quang Kết
      Tên quen gọi ở nhà của em là Gái, năm 6 tuổi vào lớp một làm giấy khai sinh ba đặt là Đoàn Thị Lành. Nhà Lành nghèo lắm - thuộc diện vùng sâu vùng xa của miền Trung  khô cằn sỏi đá. Miền đất “khắc bạc” “nắng nẻ mưa nguồn” níu chặt gia đình Lành. Năm Lành học cuối cấp trung học cơ sở ba bạo bệnh thuốc thầy chạy chữa “tát hết nước” cả tây đông y nhưng cuối cùng bệnh tình  cũng không qua khỏi. Ba mất, miếng đất hương hỏa của gia đình phải bán để trang trải nợ nần nhưng vẫn thiếu trước hụt sau, ông chú thương tình cho mẹ con Lành miếng đất phía sau rặng tre cuối vườn. Tang ba xong , hỗ trợ từ bà con mẹ cất tạm nhà - nói cho hay thế thôi nhưng chỉ cái chòi dặt dẹo thưng ván lợp tôn tạm che mưa nắng, cái nghèo đẩy tới bước đường cùng với mẹ, Lành và hai em.
      Lành đẹp cả dáng lẫn da, cân đối cao ráo, bạn bè và nhiều người yêu quý nét chân quê đẹp người đẹp nết của em. Năm cuối cấp phổ thông Lành đành nghỉ học, chuyện khỏi phải bàn. Nhiều lần Lành xin mẹ lên thành phố làm công nhân. Mẹ bảo cố học đi con, học mới nuôi hy vọng thay đổi cuộc đời nhưng Lành nghĩ cái ăn cái mặc của cả gia đình và còn hai em đi học nữa làm sao lo nổi. Chị Liền xóm dưới lên thành phố làm công nhân may về chơi, Lành khăn gói theo chị - mẹ căn dặn trước hôm ra đi.
-          Thành phố dữ nhiều lành ít, phận gái phải lo giữ thân giữ nết nghe con…
-          Dạ, con sẽ cố gắng… mẹ ơi! Giọng em nức lên nghẹn ngào nước mắt rơm rớm…
Trong lúc chờ đợt tuyển công nhân may đầu quý, tạm thời Lành phục vụ quán cà phê cùng cô chị bạn mới quen. Chuyện bưng bê dọn dẹp tính tiền ở điểm cà phê nhẹ nhàng nhưng chủ quán yêu cầu phải tươi cười vui vẻ cùng khách, ăn mặc phải có chút mát mẻ hở hang - chuyện này làm Lành khó xử nhưng cuối cùng cô đành chấp nhận. Người hiền hòa chất phác thường nhẹ dạ cả tin - lúc đầu Lành ngượng ngùng xấu hổ lắm, cô chị bạn khích lệ và khéo lời đưa đẩy.
      - Em diện vào hở một tí thôi là lắm kẻ đê mê, biết đâu có thiếu gia trồng cây si rồi đổi đời phận gái quê lên tỉnh…
Nhờ vào sự tư vấn và kinh nghiệm của chị bạn trong việc ăn mang Lành thay da đổi thịt khác hẳn. Một cô Lành thôn nữ chân quê thành một cô Lành phố thị tân kỳ - một cô Lành đồ bộ giản dị thành cô Lành váy áo phô trương - một cô Lành mộc mạc tự nhiên thành cô Lành phấn son quyến rũ…Chiếc váy đen quá gối cái áo sát nách khoe ngực mái tóc ngắn mặt hoa da phấn làm Lành biến hình nhanh - một số người quen biết không còn nhận ra cô gái quê hôm nọ. Kể từ có cô Lành quán cà phê đông hẳn lên. Chị bạn bàn tiếp chuyện thay cái tên Lành nghe quê mùa thô thiển bằng cái tên của người thành phố - Thiên Kim, Mai Lan hay Thu Thủy, Dáng Kiều…chẳng hạn - em chọn tên nào?
Mỗi ngày trôi qua tối đến đối diện với bóng đêm, lòng Lành tự nhủ: Mình có còn Gái của ngày nhỏ không? Con Lành hiền lành ngày trước ở quê giờ thế này ư? Mình nói sao với mẹ về những đổi thay này? Hay là đăng ký tuyển dụng làm công nhân may yên lành?...Bao nhiêu là giằng xé tâm can của cô gái chân ướt chân ráo bước vào đời - nhưng hình như thói quen xấu dễ lây lan tiêm nhiễm và cũng khó từ bỏ…
Lành chọn tên mới là Mỹ Lan, gần âm với chữ Lành tiện đôi bề. Thu nhập Mỹ Lan cao lên do có tiền tip mỗi khi khách mời hát ngay trong quán. Thực ra cà phê chỉ là phần phụ còn có các phòng hát karaoke theo nhu cầu của khách. Cô đã khác. Gái thành thị. Đi đứng nói năng cử chỉ thị dân. Buổi sáng thời gian Mỹ Lan dành cho trang điểm cả tiếng, bước ra khỏi phòng trọ mắt kiếng găng tay kiêu kỳ, quần áo thay đổi không đụng hàng mỗi ngày. Cô Lành ngày cũ không còn mà là Mỹ Lan thì hiện tại - đong đưa mời gọi cả liếc mắt gợi tình…
Con người lạ thật “được voi đòi tiên”, lòng tham vô đáy, đồng tiền luôn có sức mạnh vạn năng.
Ăn thích ăn ngon. Mặc thích mặc đẹp. Đẹp thích đẹp hơn. Ít muốn thêm nhiều. Giàu muốn giàu hơn. Thèm khát bằng người hơn người…và cấp độ cứ tăng dần không dừng lại. Mỹ Lan đang bước vào thế giới mới lạ. Cô muốn chinh phục mọi thứ, lòng tham trong cô chưa có nhu cầu tỉnh thức hay hoàn lương…
      Mỹ Lan cứ thế lao vào cuộc sống sa đọa, buông xuôi tất cả. Đồng tiền làm cô mù quáng…đem tấm thân ra đánh đổi mặc cho thú ham của lạ của các đấng mày râu lọc lừa bịp bợm. Trong một lần tiếp bia và hát karaoke cùng khách, cô bị hút hồn bởi một anh chàng tự xưng là doanh nhân thành đạt. Cô gái trẻ bị mê hoặc bởi vẻ điển trai cộng với tài ăn nói lôi cuốn lém lĩnh. Nghĩ mình gặp được nửa bên kia của cuộc đời, Mỹ Lan dành hết tình cảm và trao hết cho anh ta mà không chút đắn đo nghi ngại…
      Nhưng cô có biết đâu chàng doanh nhân đóng kịch kia đã có vợ và một gia đình êm ấm. Biết chồng mình đang dan díu - nàng ta tìm cách đối phó dằn mặt tình địch. Dò la tìm kiếm và âm thầm theo dõi cô ta biết nơi ở đường đi nước bước của Mỹ Lan. Họ bàn tính một trận đòn ghen với các kịch bản khác nhau. Chuyện gì đến phải đến! Một đêm trên đường về Mỹ Lan đã bị một nhóm côn đồ chặn đánh trấn lột đòn roi cắt đi mái tóc cùng với một bản án nghiêm khắc từ người vợ “Hãy thôi thói trăng hoa đi ngang về tắt khốn nạn của cô đi, hãy dừng ngay cái trò tình nhân tình nhân nghĩa giả dối bỉ ổi kia đi, hãy trả chồng tao về với gia đình…”
      Tỉnh dậy trong bàng hoàng thảng thốt ở một bệnh viên tư, Lành nghe toàn thân buốt nhức không thể gượng dậy được. Nhìn chung quanh một màu trắng lạnh toát, cô bần thần nhưng chẳng nhớ được gì. Mắt đảo nhìn phía bên kia có một chàng trai mũi cao mắt xanh đang nhìn mình với ánh mắt bao dung cảm thông. Rồi Lành lại thiếp đi trong mê man…
      Nhiều ngày sau, Lành khá hơn có thể nghe hiểu dù trả lời còn thều thào. Vẫn là anh chàng người nước ngoài - anh nói được tiếng Việt khá sành sỏi…

      - Tôi là Tony, người Hà Lan tới Việt Nam hợp tác với Việt Nam trong tổ chức ILO (International Labour Organization - Tổ chức lao động quốc tế), tình cờ bắt gặp cô nằm trên đường phố thương tích đầy mình - tôi đã đưa tới bệnh viện này được các y bác sĩ chăm sóc giờ cô đã khá hơn…

      -  Cảm… ơn… anh!

      -  Tôi cũng đã gặp người bạn của em, chị ấy kể cho nghe câu chuyện về em, tôi hiểu và thương cảm.

      Sự chăm sóc ân cần của một người chưa quen biết lại là người nước ngoài - đối với Lành là phép lạ giữa cõi đời tục lụy nhiều ngang trái. Chân cô chưa thể đi được ngồi trên xe lăn, mỗi ngày Tony đẩy cô dạo quanh khu bệnh viện, anh luôn nhìn cô ánh mắt trìu mến. Tony lại tập cho Lành những bước chân tập tễnh. Nhìn Lành chập chững như đứa trẻ lòng anh mừng vui khôn tả…Ngày từng ngày qua một tình cảm lạ kỳ giữa hai người xa lạ - họ giữ chưa dám ngỏ nhưng lòng… như đã. Truyện cổ tích giữa đời thường đến với cô Lành - quả là diệu kỳ!

     Lành lành. Trước khi về nước Tony xin cho Lành làm công nhân ngành may - công ty có mối quan hệ công việc với anh. Dù mức lương chưa cao nhưng tạm đủ sống và Lành tự nhủ: Vững tay nghề sẽ sáng mãi tương lai. Lành cố gắng chăm chỉ học hỏi đồng nghiệp và có sáng kiến nên sản phẩm có chất lượng và thu nhập ngày mỗi khá hơn…Lành yên lành với nghề may mà thuở nhỏ cô yêu thích…

     Niềm vui là hàng tuần Lành được thư trên email và facebook từ Tony. Cô trông chờ tin anh như con chờ mẹ. Anh hỏi thăm sức khỏe công việc với lời lẽ tràn đầy yêu thương. Anh hứa cuối năm sẽ sang Việt Nam về quê thăm mẹ Lành và hai em. Chao ôi! Lành nói chuyện trên FB với Tony mà lòng gợn lên yêu thương tận đáy lòng. Cô đã yêu. Ngày trước đàn ông đến với cô đâu chỉ tình yêu. Đối với Tony - anh là tình đầu của Lành. Ôi tình đầu, kỳ diệu thay - như mưa mùa hạ khiến lòng dịu mát - như gió mùa thu làm lòng nhẹ êm - như bài thơ vi diệu vượt lên mọi định kiến san bằng mọi thứ mọi cái trên đời…

     Cảng hàng công quốc tế một ngày đẹp trời, Lành đón Tony với niềm tin yêu nôn nao chờ đợi. Anh quyết định định cư Việt Nam với công việc ở ngành may - trợ lý kỹ thuật và sáng tạo cho công ty đã có thời gian Tony hợp tác. Tình yêu chắp cánh bay cao!

    Lành nghỉ phép. Cả hai cùng về quê xin mẹ. Tối hôm đó mẹ lặng lẽ làm mâm cơm khấn vái trước bàn thờ ba cho phép con gái đi lấy chồng. Đám cưới hai người chỉ làm nhẹ nhàng đơn giản ở quê, họ hàng bà con đến chung vui cũng chỉ trên dưới 10 mâm. Dù người nước ngoài nhưng Tony chẳng phải đại gia hay giàu có, Lành nghĩ mai này dành dụm tích lũy mua căn hộ chung cư để an cư lạc nghiệp. Bạn bè thời cắp sách tới mừng cô với lời chúc: Bến đỗ bình yên…còn Lành tự nhủ với  mình: Lòng cô mừng mừng…tủi tủi…không chỉ bình yên…mà là…Bến đỗ diệu kỳ! Lành bỗng nhớ ra rằng tự bao đời cha ông đã tuyên ngôn “hồi đầu thị ngạn”. Ngoảnh lại yêu thương để thấy bờ!

 

    Lê Quang Kết
ĐT: 0907 615 510
 Email:  lequang54@gmail.com
Chung cư Lê Thành B2.08.08 Khu phố 3 Phường An lạc, Quận Bình Tân, Tp.HCM
Căn cước công dân số 04605400015- Ngân hàng BIDV số tài khoản: 64210000025491

 

           

 


     



Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2018


Tùy bút                                  THẦY CÔ…VÀ TRƯỜNG XƯA
Lê Quang Kết
Chuyện kể rằng: Có cậu học trò bao năm học hành ra vào lợi danh - anh vươn tới đỉnh cao giàu sang danh vọng…Bỗng một hôm cậu nhớ ra rằng ngày xưa trường cũ có người thầy đã dìu dắt mình vượt bao gập ghềnh trắc trở để có hôm nay - thu xếp mọi thứ anh quyết định trở về thăm trường xưa với niềm ước vọng…
Con về trường cũ chiều nay 
Thầm mong được gặp lại thầy, thầy ơi!
Tuổi học trò thế hệ chúng tôi, thầy cô là những con  người lặng thầm, ngày đêm miệt mài góp nhặt những kiến thức vun trồng cho thế hệ mai sau đâm chồi nở hoa kết trái. Thầy cô đã chắp cánh cho chúng em bay cao, bay xa đến những chân trời mơ ước và hoài bão của riêng mình. Công lao trời biển của thầy cô làm sao chúng ta đền đáp được. Kể sao cho hết công ơn thầy - từng ngày tháng trôi qua, chúng em càng thấm nhuần những điều mà thầy cô đã dạy. Thầy cô đã không quản ngày đêm ươm trồng những mầm non cho tương lai đất nước. Rồi mai sau lớn khôn hành trang chúng em mang theo vẫn mãi…mãi… công ơn thầy cô như biển trời…
Đưa con qua tới bến đời 
Đò xưa thầy vẫn không rời sớm trưa
Thầy cô giáo -  người lái đò cần mẫn chuyến đò ngang đưa bao khách sang sông - và người cầm lái kia vẫn cứ tiếp tục chèo chống - năm học kết thúc cũng chính là lúc những chuyến đò đã bắt đầu cập bến. Một chuyến đò với biết bao công sức và tâm huyết, một chuyến đò chở biết bao tri thức, tình cảm mà thầy cô muốn gửi vào em. Em biết rằng để làm được điều đó thầy cô đã phải thức khuya  miệt mài cặm cụi bên sách vở. Và em biết rằng đó là những giọt mồ hôi nước mắt của  thầy cô lăn dài theo năm tháng…Em đã vươn tới bến bờ của kiến thức- của học hàm học vị, bến bờ của vinh quang bao người mơ ước. Còn người thầy ư? Thầy của em xưa nay vẫn thế vẫn là chuyến đò ngang mỗi sáng mỗi trưa… Thầy ơi! Tuổi tác đã hằn sâu những vết nhăn trên trán thầy làm tóc mai thầy thêm sợi bạc nhưng tấm lòng yêu thương của Thầy đối với chúng em, mãi mãi không cạn kiệt…Dẫu đông dài, hạ trắng, nắng gắt hay mưa giông…/ Những người chèo đò vẫn mải miết qua sông đưa khách…/ Dẫu gió lạnh, đèn khuya, lưng áo mỏng…/Thầy tôi trắng hắt những đêm kia vẫn mải miết chèo đời…”
Thầy ơi nói mấy cho vừa 
Ơn thầy dạy dỗ con chưa đáp đền
Ngày xưa quan niệm: Quân Sư Phụ và có chuyện đáp đền ơn thầy dạy dỗ - ngày nay hiếm gặp. Câu thơ như là sự tôn vinh yêu kính người thầy nghề thầy - và cũng chẳng có người thầy nào mong mai kia trò đền đáp công ơn…Thầy chỉ mong em hãy biết để ý và chăm sóc đến những người xung quanh hãy biết trân trọng những điều tưởng như rất bình thường nhưng vô cùng quý giá. Bởi mỗi một ngày trôi đi - yêu thương không bao giờ muộn… Khi mà giữa dòng đời hợt hời và vô tâm đã bỏ xa khoảng cách giữa những con người. Thầy dạy em đừng quay lưng với những người đã nhận lỗi, đừng mang ngõ cụt đến cho những người đã biết mình sai, đừng nhẫn tâm với những người đã biết quay lại…bởi “quay đầu là bờ”. Thầy dạy rằng trái tim không biết hỉ xả là một trái tim khô cứng, con người không biết tha thứ vẫn chỉ là gỗ đá cây cỏ mà thôi. Ôi lời thầy khắc cốt ghi tâm!
Biển đời ghềnh thác, chông chênh 
Đôi khi con sợ mình quên lối về
Thuở ấy, chúng em nào có biết - cuộc đời là những vòng quay gập ghềnh sóng gió. Những khúc gập, những lối quanh co, những  ghềnh thác, những vấp ngã luôn là một phần không thể thiếu trên bước đường công danh sự nghiệp kể cả tình yêu. Đừng ảo tưởng về cuộc đời là một đường thẳng, đừng nghĩ rằng mật ngọt vẫn mãi vây quanh…Đời là thế! Đời là bể khổ!
Bài thơ kết lại vẫn là những câu lục bát đơn sơ mộc mạc nhưng nhẫm đọc nghe nao lòng…
Thầy giờ lận đận chốn quê 
Lo toan cuộc sống bộn bề có hay 
Con về trường cũ chiều nay 
Thầm mong được gặp lại thầy, thầy ơi!
       Thầy ơi! Con đã tung cánh bay xa tới những chân trời mới. Bao năm dài xa trường lớp, xa bạn bè tháng ngày cũ con đã bao lần thay nhà mới, đổi mấy lần xe…còn nơi quê nhà thầy vẫn mảnh vườn xưa vẫn căn nhà cũ và…vẫn là chiếc xe mobylette phải chống chân mỗi lần khởi động…Sau 1975 thầy dạy triết của chúng tôi - thầy Nguyễn Phùng - do thời cuộc môn triết xóa sổ, thầy phải chuyển về trường xa - tháng lương lĩnh ra không đủ cho tiền xe lam đi về. Thầy đã phải bỏ dạy bỏ quê vào tận Định Quán vỡ đất cuốc trồng…Dù khó khăn nhưng thầy vẫn giữ phong thái của một giáo sư triết (danh xưng hồi đó) - đặc biệt là sự hiếu để với mạ và dì - cả vùng Định Quán và bà con thân quen ở Huế ai ai cũng thán phục kính nể…Mấy năm nay chúng tôi đã tìm được địa chỉ và mời thấy về Sài Gòn dự họp mặt - thầy vẫn giữ vẻ đỉnh đạc uyên áo của một trí thức như thuở nào…
       Chúng tôi đã có một ngôi trường và các thầy cô của một thời như thế! Những đổi thay biến động lịch sử trường tôi không còn nữa…Lũ chúng tôi phải lang bạt tha phương và tụ họp nơi thành phố xứ phương Nam này…Vậy mà mỗi chúng tôi vẫn trân quý trường xưa thầy cũ như thuở nào…
Học sinh Hàm Nghi nơi phương Nam- dẫu phải xa Huế  xa trường xưa vẫn mỗi năm hai lần tụ hội gặp mặt nhớ ơn thầy cô - nhìn gương mặt bạn bè mừng mừng tủi tủi        , nhìn thầy cô tuổi tác chồng chất mà lòng gợn lên nỗi lo…biết mai này…ra sao…Bằng nỗ lực và tâm huyết của thầy trò chúng tôi đã có 14 đặc san HÀM NGHI YÊU DẤU ra mắt thầy cô bạn bầu thân hữu…Năm nay HÀM NGHI YÊU DẤU 15 đang chuẩn bị bài vở và sẽ phát hành vào đầu xuân Mậu Tuất 2018…Con số 15 đặc san Hàm Nghi làm chúng ta dễ liên tưởng câu thơ trong Truyện kiều “Những là rày ước mai ao/ Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình”
Cách đây hơn hai năm, chúng tôi đã tổ chức kỷ niệm 60 năm ngày thành lập Hàm Nghi Huế, bạn bè gặp nhau bao buồn vui lẫn lộn. Hơn 40 năm từ độ xa trường có đứa về đất buông xuôi, có đứa mãi tận trời Tây đất Mỹ, có đứa trụ lại với xứ Huế yêu thương…Hạnh ngộ vẫn nhắc nhau những cái tên ngày ngày cũ ngộ nghĩnh…Những Minh bún, Minh heo, Minh rê, Minh loát…những Dũng babilac, Dũng búa, Dũng hiền…những Thành tọp, Thọ lao ái, Bích bột…và bao điều khác nữa đã mang theo cả một đời…
Chúng tôi đã có nhiều… nhiều… thầy cô Hàm Nghi tuyệt vời…Đã có nhiều bài viết và bình luận về thành tích và kết quả của thầy cô và học sinh Hàm Nghi 1955-1975 rất đáng hãnh diện và tự hào (Bài của anh Hoàng Hữu Quyết trên 60 năm Hàm Nghi) chúng tôi xin không nhắc thêm - chỉ nói về những tấm lòng…Ôi làm sao trang giấy nhỏ có thể chứa hết nỗi nhớ về thấy cô Hàm Nghi yêu dấu. Mỗi lần gặp mặt thầy Hiệu trưởng Nguyễn Duy Khác (1969-1975) và thầy Trần Đức Võ (nguyên Giám học) bao giờ cũng là lời khuyên nhủ nhắn bảo các thế hệ học sinh Hàm Nghi- các em phải cố lên đoàn kết yêu thương và tiếp nối truyền thống “Tôn sư trọng đạo” của Hàm Nghi yêu dấu - chúng con xin được “chạm vào xương ghi vào lòng” những lời vàng ngọc không thể nào quên…
     Chúng con học trò Hàm Nghi tự đáy lòng-  dẫu đi khắp bốn phương trời, cũng không quên lời thầy khắc ghi “tiên học lễ, hậu học văn”. Chúng con không có thầy sẽ không lớn nổi thành người. Kính chúc quý thầy cô ngàn vạn lời tốt đẹp, chúng con mong thầy cô mạnh khỏe hạnh phúc- tuổi tác đã hằn sâu những vết nhăn trên trán thầy cô nhưng tấm lòng yêu thương của thầy cô đối với chúng em mãi mãi vĩnh hằng…
·         Bài thơ trích trong bài Tùy bút “Về trường cũ thăm thầy”- tác giả Đỗ Quang Vinh


Thứ Tư, 15 tháng 2, 2017

NHỚ HUẾ THÌ…VỀ
Lê Quang Kết
           Văn nhân Thanh Tịnh- người nổi tiếng với bài văn xuôi “Tôi đi học” mà ai qua tuổi học trò ngày trước đều nhớ- nhiều người thuộc lòng nhâm nha mỗi bận tựu trường. Xa và nhớ Huế ông viết “Nhớ Huế quê tôi”: “Sông núi vươn dài tiếp núi sông/ Cò bay thẳng cánh nối đồng không/ Có người bảo Huế xa xa lắm/ Nhưng Huế quê tôi ở giữa lòng…”. Tôi là đứa con Huế tha phương, bôn ba với bao chồng chất lẫn lộn nhưng Huế vẫn “ở giữa lòng” như lời thơ nhà văn Thanh Tịnh.
           Nhớ Huế thì…về… Chuyến bay giá rẻ con gái “Advance booking” cả tháng đến hẹn. Hỏi ra mới hay là Sài Gòn- Đà Nẵng chứ không là Sài Gòn- Huế, ừ thì cũng là dịp được ngắm biển Lăng Cô tuyệt đẹp. Chuyến xe chiều đưa tôi trở về ký ức với những địa danh quen thuộc: Lăng Cô, Thừa Lưu, Nước Ngọt, Cầu Hai, Đá Bạc, Truồi, Nong, Phú bài, Phú Lương, An Cựu…Ấn tượng trong tôi là vịnh biển Lăng Cô- với phong cảnh thiên nhiên quyến rũ, trải dài trên bờ cong đẹp nhất của đất nước, Lăng Cô chứa đựng gần như tất cả những gì mà thiên nhiên có thể ban tặng: màu xanh của núi rừng nhiệt đới, những dải cát trắng mịn, ánh nắng tràn đầy và biển xanh mát mẻ trong suốt như pha lê. Quả không ngoa khi các phương tiện truyền thông đã đồng thanh đồng tình với nhận định- Lăng Cô là vịnh biển thứ 3 của Việt Nam, sau Hạ Long, Nha Trang và có tên trong danh sách 30 vịnh biển đẹp nhất thế giới…
            Huế của tôi…Giấc ngủ êm đềm sau chuyến hành trình quy hồi cố quận, tôi giật mình khi chuông điện thoại vang: - Cà phê đi chứ? Ngồi nhâm nhi bên ly cà phê, tán gẫu với bạn bè nhớ về một thời xa cũ, tôi say sưa với bao chuyện xưa nay. Tháng ngày vụng về tuổi học trò ùa về trong ký ức: Lũ chúng tôi lớn lên bên biến động đất nước, chiến cuộc lan tràn từ làng lên phố- may mắn cho bao đứa kịp tuổi không bị đôn quân, nhiều chàng phải vào Đồng Đế, Thủ Đức hay Đà Lạt nhiều chàng vĩnh viễn ra đi…Ngày ấy chúng tôi tập tành cà phê, tập tành yêu nhưng vẫn cố học “Muốn làm người yêu thì phải đỗ tú tài”(Nguyên Sa). Huế cà phê giờ đã khác xưa, hình như bận rộn hơn, hình như ồn ào hơn và thiếu đi cái nhẹ nhàng sâu lắng cố hữu của Huế yêu…
            Nhớ Huế thì…về! Tôi được về với HN yêu dấu và bạn bè thương yêu một thuở. Trường tôi mang tên Hàm Nghi- ông vua yêu nước và là một nghệ sĩ tài hoa. Hàm Nghi trường tôi nhỏ nhắn và khiêm tốn so với Quốc Học hay Đồng Khánh. Vậy mà chúng tôi mỗi đứa lại có niềm kiêu hãnh riêng về trường mình. Hàm Nghi ông vua triều Nguyễn yêu nước, từ bỏ cung son cởi áo bào cùng dân đánh giặc- ban hịch Cần Vương hiệu triệu sĩ phu giúp vua chống Pháp- đã sống mãi trong lòng dân nước. - Vậy nếu công cuộc kháng chiến đòi hỏi đi vào sống trong rừng sâu, Ngài có đi không? - Tôn Thất Thuyết hỏi. - Đi đâu cũng đi, sống thế nào cũng được, miễn là đuổi cho giặc Pháp ra khỏi đất nước - nhà vua đã trả lời giọng trầm buồn, chậm rãi nhưng kiên quyết. Câu trả lời của ông vua vừa tròn 14 tuổi quả là ý chí và bản lĩnh- nặng lòng với sơn hà xã tắc. Mười giờ đêm 26 tháng 9 năm 1888, Trương Quang Ngọc và Nguyễn Đình Tình  đem hơn 20 lính Mường vào bao vây lều tranh của vua Hàm Nghi trên bờ khe Tả Bảo (Tuyên Hóa- Quảng Bình). Nghe bên ngoài có tiếng động, quan Thống chế Nguyễn Thúy và con trai ông chạy ra, bị tên Ngọc đâm chết tại chỗ. Tôn Thất Thiệp, con út Tôn Thất Thuyết còn đang ngủ, hoảng hốt cầm gươm nhảy ra cũng bị một tên lính Mường phóng ngọn giáo vào ngực chết ngay. Biết mình bị phản, vua Hàm Nghi bước ra, ung dung cầm thanh gươm đưa cho Trương Quang Ngọc và bảo rằng: “Mày giết tao đi còn hơn đưa tao về nộp cho Tây”. Vua vừa nói dứt lời thì một tên lính Mường lẻn ra sau lưng ôm quàng lấy Người rồi giật thanh gươm ra. Từ đó, nhà vua tịnh khẩu- không nói nửa lời…
            Những năm gần đây nhiều công trình nghiên cứu năm tháng lưu đày của ông vua yêu nước Hàm Nghi đã được công bố. Luận án của chị Amandine Dabat đã trả lại cho lịch sử hội họa Việt Nam chân dung một người nghệ sĩ lớn- có trước những tác phẩm của các họa sĩ trường Mỹ thuật Đông Dương. Có thể mai đây lịch sử hội họa Việt Nam hiện đại phải chỉnh đốn lại trật tự vốn đã định hình và nghệ sĩ Hàm Nghi phải được định danh. Nhà vua là học trò của nhà điêu khắc thiên tài Pháp Auguste Rodin. Với 5034 trang tài liệu cá nhân của gia đình, chị Amandine dẫn chúng ta đến những bí ẩn hoàn toàn chìm trong bóng tối giai đoạn lưu đầy tại Alger của ông hoàng An Nam như tên chính thức của vua trên chiếc hộ chiếu số 7426. Tôi thật bất ngờ trước một khối lượng đồ sộ tác phẩm hội họa điêu khắc được chị Amandine phân tích và chiêm nghiệm từng bức một về cả bố cục đường nét màu sắc và ánh sáng dù biết… mình là người ngoại đạo hội họa…
            Nhớ Huế thì…về…Tôi được về với dấu chân Thành Nội- những con đường mòn chân những năm mài đũng trên ghế nhà trường. Đường xưa đã khác nhưng người xưa vẫn lần theo kỷ niệm…Đường Đinh Bộ Lĩnh ngày đó có quán cà phê Tôn với giá bình dân dành cho người bận rộn, đường Tống Duy Tân có Tam Tòa là nơi chúng tôi thường tới nghe xử kiện- đặc biệt là các chàng trai trẻ mơ mình là sinh viên trường Luật, đường Nguyễn Hiệu chúng tôi thường đi về mỗi bận tan trường… Đường Phượng Bay- đúng tên thật là Đoàn thị Điểm, đi ngang qua cổng thành vào Đại Nội. Hai bên đường thẳng tắp hàng phượng vỉ đỏ rực lửa hạ vào mùa hè. Đường Trại Tình Thương- tên khai sinh của con đường là Đào Duy Từ, hay còn gọi là đường Hòa Bình. Vùng đất nuôi ngựa ngày xưa của triều đình Huế, sát khuôn viên dãy thành của Đại nội, ngăn cách bởi con đường này. Sau thời kỳ hoàng phế, vùng đất trống trở thành vườn hoang ẩm thấp, không người canh tác. Chính quyền đương nhiệm cho xây thành những dãy nhà nhỏ thấp như những dãy trại lều bằng vách ván lợp tôn cho những người dân nghèo, gia đình cô nhi tử sĩ gia đình từ quê chạy lên Huế tản cư. Cái tên Trại Tình Thương từ đó ra đời và gắn liền với con đường…Chao ôi! Những biển dâu đổi dời nhiều lúc làm ta bàng hoàng như tỉnh giấc sau một cơn mơ kỳ lạ. Ai cũng đã thấy và đã từng cất tiếng: Phải rồi…Đường xưa lối cũ…tôi từng bước chân qua. Ôi! Cơ man nào là những con đường trên vạn nẻo quê hương đã bị mất tên, thay hình đổi dạng, dù đẹp xấu hay là dấu chân kỷ niệm một thời làm lòng khó quên. Những gì thân thuộc đầy dấu tích yêu thương hay ghét bỏ của những con đường đã đi qua, ta đã sống cùng nó hoặc mang theo trong trí nhớ tuỳ thuộc vào lòng mình hướng về một nơi chốn được gọi là Cố Hương…
          Ký ức tình yêu lớp chúng tôi đầy ắp hình bóng những con đường Huế. Đó là những lối mòn trong Đại Nội, những con đường nho nhỏ xinh xinh của xóm Ngự Viên xưa hay con đường đất sỏi đá bên kia cầu Ông Thượng ở Vĩ Dạ dẫn về những vườn hồng kín lối… Những buổi chiều thật muộn của mùa hè, chúng tôi đạp xe qua những con đường quanh hoàng thành: Đường Mai Thúc Loan có Nhà sách Khánh Quỳnh hồi trước cho thuê truyện kiếm hiệp- Kim Dung, đường Ông Ích Khiêm, đường Tống Duy Tân, đường Thượng Thành, đường Phượng Bay, đường Lê Huân, đường Đặng Thái Thân, đường Trần cao Vân… Đôi ba vạt nắng còn sót lại bên bờ thành quách cũ đóng đầy bóng thời gian ký ức- đẹp lạ lùng, nhớ đến nao lòng…
         Nghĩ đến ngày mai trở lại Sài Gòn, tôi như người mộng du. Giấc mơ chập chờn mộng mị đã đưa tôi về nơi chốn cũ của Huế xưa, những đền đài lăng tẩm, mái chùa xưa đã nuôi tôi khôn lớn; thăm lại dòng tộc Lê Quang và bà con họ hàng, thăm lại trường lớp bạn bè- thầy cô đã dạy dỗ tôi nên người, ghé thăm bến đò năm cũ bên sông Bồ cố quận…Một cuộc miên hành dài mà khi tỉnh giấc tôi không nhớ hết…Lòng nhủ lòng lời ước hẹn: Mai này…Nhớ Huế thì…về!

Tháng02/2017

Thứ Bảy, 6 tháng 6, 2015

Lê Quang Kết- Mạnh Thường


Lê Quang Kết là nhà văn quê gốc làng Phò Nam, huyện Quảng Điền,Thừa Thiên Huế- giảng viên Ngữ văn hiện đã nghỉ hưu tại Sài Gòn... Ông tốt nghiệp ĐHSP Sài Gòn, giảng dạy Ngữ văn, Triết học ở Thừa Thiên Huế, Bảo Lôc...
Nhà văn Lê Quang Kết sinh ngày 14 tháng 6 năm 1954 tại Thừa Thiên Huế. Thuở nhỏ học tiểu học tại Trường Tiểu học Xuân Tùy, Quảng Phú, Quảng Điền; học trung học Quảng Điền và Hàm Nghi Huế
Ông viết văn làm thơ từ thuở nhỏ ở Huế với bút danh Lê Quang, tập thơ đầu tay được in bằng roneo chuyền tay nhau đọc trong lớp hồi phổ thông lúc ông vừa 13 tuổi...
Một dấu ấn cuộc đời - đó là năm 1972 vừa đậu tú tài ông đã phải vào trại nhập ngũ, may rằng chưa mặc đồ lính ngày nào thì được lệnh hoãn do có giấy hoãn dịch gia cảnh từ gia đình chuyển vào...
Ông theo học Trường Sư phạm Huế - sau ngày 30 tháng 4 tình nguyện giảng dạy miền núi A Lưới, năm 1981 theo học trường CBQL Giáo dục 7 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tp. Hồ Chí Minh...
- Năm 1984 ông trở lại Huế nhưng chưa tròn một năm- 1985 ông chuyển vào Lâm Đồng giảng dạy tại trường Trung học Nông nghiệp Bảo Lộc- sau này nâng cấp thành trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Bảo Lộc...
- Năm 2014 nghỉ hưu ông chuyển về Sài Gòn cư trú tại số nhà 128/1A Âu Cơ, phường 9, Tân Bình...
- Một số tác phẩm đã xuất bản:
  + Tình Huế
  + Người đàn bà trên núi

Thứ Hai, 26 tháng 5, 2014

LỊCH SỬ CÓ THỂ CÓ DẠNG ĐỒNG TÂM?- Lê Quang Kết


LỊCH SỬ CÓ THỂ CÓ DẠNG ĐỒNG TÂM?
     Cậu học trò yêu sử trong tôi lần giở sách xưa và dừng lại trang sử- chỉ một lần và duy nhất- đó là lần Phạt Tống của danh tướng LTK. Phương châm của ông là "Tiên phát chế nhân" (Ý của câu này là ra tay trước thì có thể chiếm thế chủ động và áp đảo được đối phương)...Nhiều sử liệu liên quan văn chương ai cũng biết- đó là thời nhà thơ Vương An Thạch- Tể tướng thời Tống với câu thơ trở thành giai thoại lý thú "Minh nguyệt sơn đầu khiếu/ Hoàng khuyển ngọa hoa tâm" và Đại Việt với bài hịch Phạt Tống Lộ Bố văn của LTK.
     Rất tiếc bài hịch hiện không còn văn bản, thế nhưng có thể hiểu nôm na rằng: Giao chỉ tuy nhỏ đất hẹp người thưa nhưng chúng tôi cũng có thể mang quân chinh phạt Trung Nguyên to lớn đất rộng người đông, và tôi có thể đánh thắng (chiếm Khâm châu, Liêm châu, Ung châu), tôi đánh cho anh biết thế thôi, còn tôi không xâm lược nên tôi rút quân về, hòa hiếu để nhân dân hai nước an bình. Một mặt, Lý Thường Kiệt kể tội các quan nhà Tống mưu xâm chiếm Giao Chỉ nên nhà Lý phải mang quân đánh. Mặt khác, ông lợi dụng mâu thuẫn giữa hai phe bảo thủ (Tư Mã Quang đứng đầu) và cách tân (Vương An Thạch đứng đầu) trong triều đình nhà Tống nhằm chia rẽ địch; ông bài xích những chính sách "thanh miêu", "trợ dịch" của nhà Tống để kích động sự oán hận của dân Tống. Dân Tống thấy lời tuyên cáo đều vui mừng đồng tình, mang rượu thịt ra khao quân Lý. Từ đó mỗi khi dân Tống thấy cờ hiệu Lý Thường Kiệt từ xa đều nói đó là quân của cha họ Lý người nước Nam và cùng nhau bày án bái phục trên đường. Do đó uy danh quân Lý lan rất xa. Lý Thường Kiệt mang đại quân đến vây đánh cuối cùng hạ được Ung châu như dự định ông đặt ra ban đầu. Phá thành xong, triệt hạ cơ sở quân sự chuẩn bị nam xâm của nhà Tống, Lý Thường Kiệt rút quân về Đại Việt.
     Lịch sử có các dạng đồng tâm, 10 năm, 50 năm,100 năm, 1000 năm...- lịch sử các dân tộc có thể lặp lại với quy mô và sự thể khác...BIẾT ĐÂU LẦN NÀY LỊCH SỬ LẠI ĐỒNG TÂM?

Thứ Bảy, 11 tháng 1, 2014

Nhà thơ kiệt xuất Nguyễn Đức Sơn- Tâm Nhiên

NHÀ THƠ KIỆT XUẤT NGUYỄN ĐỨC SƠN


Không biết từ đâu ta đến đây
Mang mang trời thẳm đất xanh dày
Lớn lên mang nghiệp làm thi sĩ
Sống điêu linh rồi chết đọa đày
Mấy câu thơ thời tuổi trẻ, lúc mới 23 tuổi ấy đã theo suốt cuộc đời Nguyễn Đức Sơn, một thi sĩ kiệt xuất trên bầu trời văn nghệ Việt Nam hiện đại. Rờn lạnh hoang vu một tâm hồn cô độc cô liêu khốc liệt, luôn luôn ngún cháy bên trong chiều sâu linh thức một ngọn lửa tịch mịch vô hình, thường trực đứng giữa đôi bờ sống chết giữa đỉnh cao và hố thẳm của tồn sinh bức bách ngay từ những ngày còn chạy lông bông  đùa rỡn cùng sóng vàng cát trắng vu vơ dọc mấy hàng cây dương liễu xanh ngút ven bãi biển Ninh Chữ xa mù. Từ đó, từ thuở nhà thơ chào đời năm 1937 ở làng quê Dư Khánh, Thanh Hải, Ninh Thuận đến nay cũng hơn 70 năm trời đằng đẵng trôi qua rồi mà ngọn lửa tịch mịch đó vẫn còn hừng hực rực ngời như một ngọn lửa thiêng trong lòng người thi sĩ dị thường :
Tôi chỉ có lửa
Và tịch mịch
Trong người
Lửa thơ, lửa mộng, lửa tình yêu, lửa nghệ thuật hay lửa sáng tạo ấy bao giờ cũng được thi sĩ đốt lên trên dặm ngàn cuộc lữ thênh thang. Năm 1956 lúc 19 tuổi, rời làng quê Dư Khánh, tạm biệt thị xã Phan Rang ra phố biển Nha Trang theo học trường Trung học Võ Tánh một thời gian, nhà thơ thường trốn học rong chơi lêu lổng dọc ven bờ biển lồng lộng đầy gió nắng với những ý tưởng mông lung vời vợi, chơi đùa chạy đuổi bắt những vệt nắng xanh vàng rơi tan trong bọt sóng bồng bềnh lênh láng mộng rong rêu :
Nhiều khi đợi nắng chiều tan
Tôi mông lung nghĩ theo làn mây trôi
Ngày kia nếu ở trên đời
Cha tôi không cưới mẹ tôi bây giờ
Sinh ra tôi có làm thơ
Để điêu linh vẫn như chờ riêng thôi
Những đêm sao sáng đầy trời
Bỗng nhiên tôi khóc trên đồi hư không
“Sinh ra tôi có làm thơ” vì không biết làm chi hơn là làm thơ, làm một cái công việc mà chỉ có những tâm hồn vô cùng nhạy cảm, thường xuyên có sự giao cảm âm thầm thâm sâu uyên viễn với nhật nguyệt thiên địa càn khôn, với hồn thiên cổ xa xăm diệu vời mới thích thú đam mê  theo công việc duy nhất của đời mình, ấy là cái việc làm thơ làm thẩn đó thôi. Nói như Tuệ Sỹ khi viết về Sơn Núi : “Sinh ra để làm thơ, đó là Định mệnh ?” hay như Phạm Công Thiện, một người bạn thân thiết ngày xưa với Nguyễn Đức Sơn cũng nói : “Làm thơ là hố thẳm xoáy tròn vào cơn bão tố rùng rợn của thơ và chỉ nhìn thấy thơ trên trời, thơ ở dưới đất, thơ trong tim, thơ trong óc não, thơ trong mạch máu, thơ trong hơi thở, thơ trong đời sống, thơ trong cái chết, thơ trong hiện thể, thơ trong vô thể, thơ trong hư vô… Chỉ có thi sĩ mới sống tận bản thân mình, sống phóng tới đằng trước tất cả những khả tính sắp hiện của dân tộc mình.”
Đích thực Nguyễn Đức Sơn là một thi sĩ kỳ tuyệt, một nhà thơ mà  hồn thơ luôn tuôn trào trong huyết quản rạt rào vô hạn. Chàng “lớn lên mang nghiệp làm thi sĩ” nên đi đứng ngó nhìn bất cứ sự vật trần cảnh, lạnh nóng cao thấp, trời xanh mây trắng, con người con vật chi chi cũng đều thấy thơ và thơ bàng bạc thấp thoáng, ẩn hiện lung linh, rạo rực xao xuyến ở trong máu trong hồn như vậy, khiến cho ý tình rung lên bổi hổi dâng đầy. Tuy thấy được vẻ đẹp cực kỳ của tạo vật đất trời nhưng đồng thời cũng ý thức tận cùng cái hư ảo mong manh của cuộc sống, như một lần nhà thơ thổ lộ ở trang bìa trong tập thơ Đêm nguyệt động : “Một buổi chiều trốn học lang thang trên bờ biển Nha Trang thời niên thiếu, tác giả suýt nổi cơn điên khi trực nhận mãnh liệt cái quá ư ngắn ngủi của kiếp sống và từ đó đâm ra khật khùng cho đến nay.” Vậy đó, ngó nhìn đâu cũng rung động cũng thấy đẹp tuyệt vời, nhưng đẹp tựa ánh chớp như bọt nước sương rơi :
Tôi bỗng thấy mạch đời bừng chảy
Như nhựa xuân tràn lên đầu cành
Rồi tôi thấy mạch đời đang chảy
Ở trong tôi mà sao mong manh
Ý thức tức thì cái mong manh thoáng chốc của bọt nước, cái phù du hư huyễn vô thường  của cuộc đời, cái lênh đênh trôi dạt của thân phận kiếp người giữa cuộc phù sinh dâu biển như thế, nhà thơ chợt thấu thị thấy bùng vỡ ra một điều chi bất ngờ như triết gia Nietzsche thấy “thượng đế đã chết” nghĩa là không có thực : “Thượng đế, sự bất tử của linh hồn, sự cứu rỗi, cõi trên kia, đó là những ý niệm rỗng tuếch mà tôi không bao giờ bận tâm đến.”* Sơn Núi cũng vậy, thấy “thượng đế đi rồi” chỉ còn đây trên mặt đất là sự có mặt đương nhiên của con người và nhà thơ tự hỏi, tự khai phá về sự hiện hữu của con người, về lẽ sống chết, về lý âm dương tự nhiên của tạo hóa. Tất cả sự hiện hữu này có ý nghĩa chi không hay chẳng có nghĩa lý gì cả hỡi trời mây vạn đại thái cổ từ thuở hồng hoang nào lạc dấu mộng sơ nguyên ? :
Lênh đênh thuyền giạt xa miền
Nửa đêm bừng tỉnh man thiên một trời
Trông lên thượng đế đi rồi
Hỏi mây thái cổ con người vân vi
Lối mòn cỏ mộ xanh rì
Ngoài ra kìa chẳng có gì nữa sao
Đảo buồn thổi gió lao xao
Ngàn xưa còn tiếng thì thào biển khuya
Biển tàn khuya gõ nhịp đi về nhưng biết về đâu giữa khuya dài lê thê trong đêm tối đen ngòm mịt mù u ám của nhân loại ? Vai gầy nghiêng nghiêng lệch gót chân xiêu vẹo bước theo bóng mình xơ xác qua vạn nhịp cầu ảo dị suy tư. Tuổi còn thanh niên mà cứ tưởng tượng đến ngày mái đầu bạc phơ tóc trắng, chẳng hề gì vì đường thơ mở rộng bồng phiêu liều lĩnh trên cung bậc dấn thân nhập cuộc, cho dù cũng lắm lắm hiu hắt tàn xiêu :
Biển hoang cồn lạnh tiếp chiều
Đá trơ với đá tôi liều với thơ
Áo quần hai bộ xác xơ
Quạnh hiu dù đến bạc phơ mái đầu
Nẻo xa chưa thấy nhiệm mầu
Chân còn bước vạn nhịp cầu suy tư
Suy tư, trầm tư, uyên tư là sống triết lý. Sống triết lý nói theo Nietzsche là sống cố ý, chú tâm triệt để vào một vấn đề nào đó như thiền sư nhiếp tâm miên mật vào công án tử sinh của đời mình để đốn ngộ chân lý giải thoát. Thiền là quán sát, quán chiếu tâm ý mình trong từng hơi thở từng lời nói, từng hành động từng sự việc tế nhị, thi sĩ biết tâm ý mình đang tỉnh thức hay đang mơ mộng trong giấc ngủ cô miên, biết mình đang mộng thấy bay ra ngoài trời đất càn khôn vũ trụ trùng trùng ánh phong quang :
Đêm mơ đến xứ nguyệt vàng
Vẳng xa buông lạnh mang mang tiếng thiền
Chập chờn nửa giấc cô miên
Tâm tư lay bóng con thuyền ra khơi
Trùng trùng sóng gợn luân hồi
Võng ru thuyền mộng vượt ngoài càn khôn
Con thuyền viễn mộng giong cánh buồm trắng mây bay qua những chiều phiêu nhiên mà thả hồn Một mình chạy chơi trên bờ biển :
Bóng nương bãi quạnh lướt đều
Cát in mau dấu hằn theo chân người
Giữa chiều nắng trải xa xôi
Thao thao sóng rượt hồn tôi ngút ngàn
Dặm về nguyệt tỏa mang mang
Một thân sinh tử hai hàng lệ sa
Rưng rưng hai hàng nước mắt, lặng u uẩn dặm về khuya khoắt ướt sương trăng. Trọn vẹn một trái tim đầy nhiệt huyết, luôn luôn mở rộng lòng ra để đón gió thanh tân từ ngàn phương lồng lộng thổi về nhưng cũng thường sửng sốt ngạc nhiên trước sự tàn bạo xảo trá, giả dối lừa gạt một cách tàn nhẫn của con người, nên thi nhân thỉnh thoảng rơi vào tâm trạng lạc lõng bơ vơ, lạc loài bỡ ngỡ, để rồi có đôi lúc thích Một mình giả chết trên bờ biển :
Nghe đời rút xuống xa xăm
Tứ chi rời rã tôi nằm im ru
Dã tràng tưởng giấc ngàn thu
Mon men vài chú đã bu quanh rồi
Phiêu phiêu mây bạc trên trời
Đưa tôi về cõi tuyệt vời mai sau
Màu mây bạc phất phiêu lãng đãng, tang bồng chốn nào tuyệt vời tận cuối biển đầu sông ? Sống giữa chợ đời đông đảo náo nhiệt, bắt buộc người ta phải biết suy ngẫm trầm tư để phân biệt đúng sai, phải quấy này nọ, nhưng khi đứng trước đại dương mênh mông rộng rãi thì điều đó không còn cần thiết nữa. Cứ thoải mái tha hồ vô tư với từng mạch luồng hơi thở, mở toang từng buồng tim thớ phổi ra mà thở cho thật nhẹ nhàng sảng khoái thẳm sâu như thi sĩ nhiều lần thẩn thơ Một mình nằm thở đủ kiểu trên bờ biển :
Đầu tiên tôi thở cái phào
Bao nhiêu phiền não như trào ra theo
Nín hơi tôi thở cái phèo
Bao nhiêu mộng ảo bay vèo hư không
Sướng nên tôi thở phập phồng
Mây bay gió thổi trời hồng muôn năm
Mai sau này chỗ tôi nằm
Sao rơi lạnh lẽo âm thầm biển ru
Nhà văn Võ Phiến rất tâm đắc bài thơ này, còn thiền sư Nhất Hạnh suốt bình sinh du hóa khắp nơi trên thế giới cũng chỉ xiển dương cái sự việc thở ra thở vào một cách vững chãi thảnh thơi như vậy mà thôi. Biển sóng ru êm ái rào rạt như tiếng nhạc mơ hồ xào xạc từ xa xôi đồng vọng lại, nghe dạt dào xao động như cung đàn Mozart, Schubert, Chopin, Beethoven… Nắng chiều tà nhòa nhạt, dần dần buông nhẹ xuống bóng hoàng hôn vàng lịm màu tím sẫm cuối ngày, lay bay giữa ngàn trăng thanh gió mát, làm sao mà không nổi hứng bỡn cợt rỡn đùa với nàng thơ diễm kiều lãng mạn phiêu diêu :
Chiều êm hơn cả gió lùa
Tôi ra cuối bãi tôi đùa với trăng
Tay choàng lên với môi hằn
Tôi mơn gió lả tôi măn vú đồi
Có hương có nhạc trên trời
Tóc tôi se gió mắt ngời ánh sao
Ồ thì ra là chàng ngồi một mình xốn xang với ảo giác lãng mạn đấy thôi. Sự việc tưởng tượng mơ mộng “vú đồi môi hằn” ấy là dấu hiệu đã đến tuổi dậy thì, gây gây mùi tính dục, khiến chàng bất giác thò tay xuống mân mê, mó máy cho rục rịch cụ cựa cái của quý, theo bản năng tự nhiên Một mình đã vọc c trên bãi biển :
Thật tình đã ngứa chưa con
Bốn bên lặng ngắt hoàng hôn đến rồi
Mai kia nằm chết giữa trời
Tôi ôm Tuyệt Đối một thời xuân xanh
Tuổi thanh xuân bừng dậy rạt rào, nao nức những đêm trăng huyền hòa tỏa ngan ngát hương biển ngàn mới lạ Nha Trang, những chiều vàng rạo rực hứng chí chi mà cứ mãi miết đuổi theo mấy áng mây trời khoáng đãng bao la, nhòa nhạt trong sóng nắng xa xăm, nhấp nhô dào dạt tiếng lòng long lanh, lấp lánh bao mộng đời ơi chao xao xuyến, miên man nỗi niềm chi không thể thốt nên lời để Một mình đuổi theo mây bạc bay trên biển :
Biển chiều còn lại mình tôi
Đuổi theo mây bạc giữa trời bao la
Thủy triều chợt rút ra xa
Bóng thanh xuân rụng ác tà sau lưng
Rừng biển tà huy vi vu vi vút từng mảng khói lam chiều phiêu hốt. Một mình chỉ một mình thôi. Nỗi cô đơn sóng lượn nhồi máu tim. Trùng dương bèo bọt nổi chìm. Niềm hư không đó nghe im lặng sầu. Sau lưng bỏ lại dấu thanh xuân khuất bóng, khi thi sĩ quyết định dời gót lên đường viễn phương hành vào phố thị Sài Gòn, tiếp tục chuyện sách vở học hành ở Đại học Văn Khoa. Tưởng là mở ra một chân trời mới, một niềm hy vọng phong quang xán lạn, nhưng bất ngờ trở chứng, tính khinh bạc ngông cuồng bộc phát đột ngột, mới học vài ba năm chưa tốt nghiệp thì đùng một cái chàng bỏ ngang dang dở nửa chừng, để lạnh lùng đứng dậy quay về thế giới độc đạo cô liêu của riêng mình. Tịch nhiên trầm lặng đối mặt với nỗi cô đơn rờn lạnh quạnh hiu, với nỗi sầu vạn đại tuyệt mù như thi sĩ Huy Cận : “Một chiếc linh hồn nhỏ. Mang mang thiên cổ sầu.” Sầu thiên cổ mang mang quằn quại, nhói buốt ngay từ lúc còn trốn học lêu lổng mộng rong chơi :
Tôi dòm đời khi tuổi sắp hai mươi
Nhìn trước nhìn sau thấy rõ ràng
Những người đi trước sầu đeo nặng
Những người đi sau sầu không tan

Tôi dòm đời khi tuổi sắp hai mươi
Thấy hay hay nhưng làm sao cười
Như chuyện lớn lên rồi có vợ
Cuối đời về đất lạnh nằm xuôi

Ngập ngừng chân bước con đường vắng
Mây trắng bay lên òa đất trời
Tôi cúi đầu nghe mình nhỏ lệ
Biết chuyện gì rồi cũng buồn thôi
Người thi sĩ ứa lệ  không phải vì xót thương cho thân phận của mình mà thực ra là chạnh lòng trắc ẩn trước sự mong manh mỏng mảnh, bèo bọt thoáng chốc quá ư là nhỏ bé phù du của kiếp nhân sinh giữa trời đất vũ trụ bao la, như nhà thơ Trần Tử Ngang một lần kia, tình cờ đi ngang qua nghĩa địa, thấy hàng trăm nấm mộ ven đường mà bàng hoàng cảm thán xót xa :
Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa tới
Nghĩ trời đất vô cùng
Một mình tuôn giọt lệ
Giọt lệ thi nhân nhỏ xuống nấm mồ nhân thế có ý nghĩa gì trên cuộc về của chúng ta ? Cuộc đi hay cuộc về là một cách nói văn vẻ cho có đầu có đuôi thế thôi, chứ thực ra chẳng có cuộc nào cả, ngoài cuộc sống đang diễn ra trước mắt sờ sờ, ngay trong từng hơi thở ra vào sinh động hằng ngày đây thôi. Cuộc sống thực tế, thực tại hiện tiền ngay đây trên mặt đất này là đã đủ đầy hoan lạc, vô cùng hạnh phúc rồi, đừng có ngu xuẩn vọng tưởng mong cầu một thế giới nào khác ở đâu đó trên trời với cảnh thiên đàng, cực lạc man thiên huyễn hoặc mơ hồ. Bao thần thánh, thần linh, thượng đế tối cao vô hình đang quan sát, chiếu cố chúng ta là một ảo tưởng, ảo giác cuồng si, chỉ là do những đầu óc mê vọng tưởng tượng bày vẽ ra, như đạo sĩ Osho tuyên bố : "Thượng đế không hiện hữu, chưa bao giờ có thực.” Không có thực thì làm sao mà chết được như Nietzsche đã nói ? Có lẽ Nietzsche muốn nói hãy chết đi cái ý niệm về thượng đế kia đó thôi. Vâng, hãy để những ý niệm, khái niệm ấy tan biến cho rồi. Với thi nhân, sống thì phải sống mãnh liệt, dốc hết sức bình sinh ra mà sống một lần thấu triệt thiên thu, siêu thần bạt thánh, cho nên hãy vận dụng thập thành công lực, đứng bật dậy nhảy múa hát ca sôi nổi nhập cuộc tuôn trào lai láng theo mạch đời trôi chảy đầy mới lạ mới mẻ, đầy đam mê xuất thần say sưa ngây ngất :
Hãy đốt đuốc hằng đêm trên trái đất
Cho núi rừng và biển thẳm lung linh
Các em làm sáng rực cả vô minh
Để anh có một nguồn vui bất tuyệt

Hãy đọc kỹ hồn anh trong bóng nguyệt
Các em vừa mười bốn với mười lăm
Bài học gần nhưng cũng rất xa xăm
Các em hãy bắt đầu yêu bụi cát

Bởi trái đất là niềm kiêu hãnh nhất
Dù xe đời lăn hố thẳm ngửa nghiêng
Đã chết rồi bao ngưỡng vọng thiêng liêng
Dù khuya vắng trời muôn sao lấp lánh

Chúng đã dựng lên bao nhiêu thần thánh
Ung thúi rồi dưỡng chất của chiêm bao
Đêm mới về niềm hoan lạc xôn xao
Ta đốt đuốc chạy dài trên trái đất
Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất là bước đi  muôn chiều tiêu dao của thi sĩ thiên tài Phạm Công Thiện, còn Nguyễn Đức Sơn nhà thơ xuất chúng thì đốt đuốc lên chạy dài trên trái đất thênh thang. Đi nghêu ngao hay chạy rộn ràng cũng cùng một thể điệu phiêu nhiên chuếnh choáng, hân hoan tiếp diễn lồng lộng bồng bềnh trên cánh gió ngàn xuân :
Một đêm sao ở trên rừng
Đua nhau rụng xuống chào mừng nhân gian
Hồn tôi cây cối liên hoan
Rưng rưng tôi thấy trăm ngàn ước mơ
Tuổi vàng suối mộng trời thơ
Lớn lên tôi chết trên bờ hư không
Sống rạt rào hào hứng cho đã cái đời chơi ngông bồng bềnh nghệ sĩ rồi bất thình lình nỗi chết hiện về ám ảnh khôn nguôi, khiến chàng thi sĩ thượng thừa như thế cũng ngậm ngùi cay đắng, chẳng biết làm sao hơn là ngắm nước chảy mây trôi trước niềm đau khổ thống thiết chợt xảy đến trong đời :
Một ngày đau khổ chín trong tôi
Tôi đến bên cây lẳng lặng ngồi
Cây thả trái sầu trên nước lắng
Mặt hồ tan vỡ ánh sao trôi

Thôi nhé ngàn năm em đi qua
Hồn tôi cô tịch bóng trăng tà
Trời sinh ra để chiều hôm đó
Tôi thấy mây rừng bay rất xa
Mây bay nước chảy, gió cuốn sương rơi là sự tuần hoàn tự nhiên của tạo vật đất trời, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn nói “cứ để gió cuốn đi” hết những mối tình thơ mộng như dòng sông trôi cuốn phù sa ra biển cả muôn trùng. Chúng ta chỉ cần chứng kiến sự luân lưu trôi chảy là đủ rồi, biết thưởng thức vẻ đẹp luôn luôn thay đổi bởi muôn đời sự đổi thay biến chuyển là chân lý hiển nhiên. Ý thức trực tiếp được điều đơn giản đó, thi nhân chấp nhận sự thật và can đảm lẫm liệt thổi bừng lên ngọn lửa tim hồn đốt cháy, thiêu rụi cả thành vách bịt bùng khủng khiếp của hư vô để hiển lộ ra cái tinh túy tinh hoa, ngay trong sự đổ vỡ dở dang vẫn còn đó vầng trăng bát ngát, vầng trăng tâm linh xanh biếc thiên thu là nguồn cảm hứng sáng tạo vô cùng đắm đuối của bậc tài hoa Thi sĩ :
Khi ý thức mặt đất này dang dở
Ta vội chìm trong bóng nguyệt mang mang
Khi chấp nhận ngàn lần trong đổ vỡ
Ta một hồn đắm đuối giữa tan hoang
Phản kháng, nổi loạn muốn chuyển hóa là cá tính vốn có sẵn trong dòng máu nhiệt liệt của nhà thơ luôn luôn tìm tòi mới lạ, khát khao tuyệt đối, khao khát tự do từ thời còn nhỏ tuổi, vì ý thức trực cảm trước sự đổ nát tan hoang trên mặt đất trần gian mà chàng lao đầu húc vào mọi thứ như muốn thách thức những thế lực vô hình cho nguôi đi ý niềm bổi hổi sục sôi :
Tôi dừng lại giữa năm mười sáu tuổi
Một sớm hồng nghe nắng rụng tan hoang
Tôi nằm xuống phập phồng hai lá phổi
Sao mạch đời đang chảy bỗng khô ran

Đau nhức quá trong tôi niềm tuyệt đối
Nên cởi quần chạy giữa đám vi lô
Tôi động cỡn nhảy kè bên khe núi
Rồi ôm đầu lao thẳng xuống hư vô
Hư vô, hiện sinh, tình yêu, tính dục là những vấn đề cháy bỏng nóng hổi mà tuổi trẻ rất băn khoăn, thắc mắc và nhà thơ trải lòng ra mà chia sẻ một cách tâm huyết rằng, các em hãy mạnh mẽ hùng tráng mỉm cười đứng lên, tự nhận trách nhiệm với chính mình, mãnh liệt hiên ngang sống tự do, tự giải thoát mình ra khỏi những bóng ma thượng đế, thánh thần vớ vẩn đang trú ẩn đâu đó ở trên cao vô tăm tích kia. Tư tưởng Nguyễn Đức Sơn tương ứng với tư tưởng đạo sư kỳ vĩ Krishnamurti : “Không có thượng đế nào khác hơn con người trở thành chí thiện. Không có một thần uy nào ở ngoài sai khiến được con người. Tuyệt nhiên không có thiên đường địa ngục nào khác hơn những cái do chính con người tạo ra. Cho nên con người chỉ có trách nhiệm đối với mình, chứ  không nên nô lệ, lệ thuộc vào bất cứ ai khác, bất kỳ một kẻ nào khác.”** Vâng, đúng là như vậy ! Hãy kiêu hùng dũng khí lao đầu vào con đường không lộ, vô mục đích với tư thế tự tin tự lực, vững mạnh vững vàng :
Các em hãy đi tuần quanh trái đất
Ôi tuổi vàng mười sáu với mười lăm
Phải hoàn thành sứ mệnh một trăm năm
Trước khi biến tan vào trong bụi cát

Nắm tay cất đại đồng ca bát ngát
Ở trên đầu thần thánh với âm binh
Mấy ngàn năm nguồn cội của điêu linh
Chúng lảm nhảm an toàn sau bí tích

Kiêu dũng nhất là con đường không đích
Ta cắm đầu lao thẳng tới hư vô
Ôi mộng đời cháy sém cỏ cây khô
Trăng thế kỷ rừng Đông phương tỏa chiếu
Chịu chơi nhất là kẻ lên đường không mục đích, không hy vọng, chẳng mong cầu điều chi cả mà quăng ném trọn hồn mình vào cái thực tại đang là như đại văn hào Nikos Kazantzakis : “Bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm một cách im lặng, rộng lượng và không hy vọng.” Trên tinh thần sáng tạo đó, bước đi của chàng thi sĩ xuôi ngược suốt muôn chiều phiêu bạt phiêu lưu, lang thang khắp vùng Phan Rang, Nha Trang, Đơn Dương, Đà Lạt, lưu linh lạc địa xuống miền Bảo Lộc, Bình Dương rồi tấp về Biên Hòa, Sài Gòn rộn rã… Cuộc lữ du sĩ ca qua mọi chốn miền duyên hải ngút ngàn biển xanh cát trắng rồi tưng bừng lên rừng cao rú thẳm xa xăm, có lúc sung sướng, thăng hoa phấn chấn ngất trời, rồi nhiều lúc cũng bầm dập tiêu điều, điêu đứng những nẻo đời gian nan bão bùng lốc xoáy lăn quay. Xoay xuở đủ đường trước bao nhiêu chuyện đa đoan thúc bách trăm chiều, tự đẩy mình vào những chốn khốn cùng túng quẩn nhất. Có lần xui xẻo bị bắt giam vào nhà lao vì trốn quân dịch, không chịu đi lính ra chiến trường cầm súng bắn giết đồng loại. Nằm co ro tê tái trong trại giam chật chội ngột ngạt giữa trưa nồng oi bức, bưng chén cơm tù lên thi nhân vẫn trân trọng sự sống, cảm tạ đất trời vô lượng bao dung :
Mỗi ngày cúi xuống hạt cơm
Anh nghe thấm một mùi thơm lạ lùng
Cắn đôi hạt muối thường dùng
Biết ơn trời đất vô cùng em ơi !
Trăm năm ta sống một đời
Ngàn năm gởi lại chút lời thở than
Ai đã từng lâm vào cái cảnh tù ngục đọa đày thì mới thấy thật là kinh rợn khủng khiếp như thân thể bị ghẻ lở tróc da đầy mình, bệnh tật bệnh hoạn không thuốc thang, nằm bầm dập não nề thê thảm, chẳng có một người nào chăm sóc thì bất cứ ai ai cũng cảm thấy xót thân tủi phận, căm hờn phẫn nộ bọn cầm quyền độc tài tàn bạo, thế nhưng ở đây, thái độ ứng xử lại trái ngược hoàn toàn, chàng thi sĩ bị đọa đày nhốt trong tù như thế mà không oán giận, vẫn thản nhiên điềm nhiên bày tỏ những lời tri ân chân thành, cảm ơn tật bệnh ghẻ lở, cảm tạ sự tăm tối vô minh, Cảm ơn tù :
Cảm ơn ghẻ mọc đầy mình
Cảm ơn bệnh hoạn chung tình với ta
Cám ơn dái tróc lòi  da
Cảm ơn tù dẫn tôi ra khỏi đời
Cảm ơn tất cả xa rồi
Hôm nay tôi thấy tôi ngồi bên tôi
Cảm tạ tất cả sự nghiệt ngã của cuộc đời vì nhờ đó mà nhà thơ mới có cơ hội đối mặt với bản thân, thấy lại cái mặt mũi xưa nay của chính mình. Ơi chao ! Thật là một cái nhìn sáng tạo tân kỳ, chỉ có những bậc siêu việt mới thấy được như thế, biểu lộ một tâm hồn thượng đẳng hoằng đại, vì đối với một tâm hồn thượng đẳng hoằng đại thì dù họ có sống ở đâu, ngay cả trong ngục tù tối tăm đi chăng nữa, họ cũng chuyển thành một dịp may hy hữu, vẫn thấy xiết bao nguồn cảm hứng sáng tạo như thi hào Rainer Maria Rilke phát biểu : “Nếu đời sống thường nhật trở nên nhạt nhẽo nghèo nàn đối với mi thì mi đừng bao giờ oán trách nó. Mi hãy tự trách chính mi rằng mi không đủ tâm hồn thi nhân để mà có thể gợi dậy trong lòng mình tất cả sự phong phú miên man của đời sống thường nhật. Vì đối với một con người sáng tạo thì chẳng có gì nhạt nhẽo nghèo nàn, chẳng có một nơi chốn nào là khô khan lãnh đạm, dù ngay lúc mi đang ở trong nhà tù đi nữa, giữa những vách tường bưng bít, không để lọt vào những tiếng động của thế gian. Phải chăng ngay lúc đó trong lòng mi vẫn luôn luôn còn lại tuổi thơ, kho tàng quý báu, chứa chất bao nhiêu kỷ niệm tuyệt vời ? Hãy hướng tất cả tâm tư mi vào đó… Dọ dẫm tận đáy lòng sâu thẳm mà từ đó đời sống mi đã phát nguồn luân lưu trôi chảy…Bởi vì một nghệ sĩ sáng tạo bao giờ cũng có một vũ trụ cho riêng mình, phải tìm tất cả mọi sự ngay trong tâm hồn sâu thẳm của chính mình đây thôi.”*** Ngồi trong song cửa sắt, nhà thơ lặng lẽ gởi hồn về chốn miền viễn mộng Bình Dương, nơi có bà con chòm xóm và người yêu dấu cũ đang chờ đợi buồn tênh :
Bên trong khung cửa sắt này
Anh ngồi đếm lại từng ngày xót xa
Đêm qua mơ trốn về nhà
Ôm em ngủ suốt canh tà với trăng

Có ai về được Bình Dương
Hỏi thăm chòm xóm có thường hay không ?
Đêm đêm bom tưới đầy đồng
Những oan hồn cũ bế bồng đi đâu ?
Sầu áo não nghe se sắt lạnh máu tim hồng. Chẳng biết chư Phật, chư Bồ tát mầu nhiệm ở đâu đó tận trên bầu trời cao xanh thẳm kia, có thấy địa cầu đang chìm trong bóng tối om om và bom đạn súng ống chĩa đen ngòm bốn phía hay không ?  Lòng kẻ bị tù đày giam nhốt thờ thẩn vẩn vơ, đôi khi lặng trầm Nói với Quán Thế Âm :
Cho con xin một ánh trăng
Đêm nay mười bốn phải chăng khởi đầu
Trên cao tỏa sáng nhiệm mầu
Sao con chỉ thấy địa cầu tối om
Bốn bên súng chĩa đen ngòm
Thiết tha tâm Phật con dòm vô trong
Biết dòm vô trong lòng mình là có dịp sẽ bừng sáng, hoát nhiên đại ngộ, thấy được Phật tánh thanh tịnh vốn thường hằng hiện hữu tự bao giờ. Một khi tri kiến Phật, thấy được Tâm Phật rồi thì tự nhiên có thái độ hỷ xả dung thông. Sống trong xã hội thời loạn ly, bị vây khổn ngột ngạt đầy âu lo khó thở, nhà thơ mơ ước ngày mai kia, tất cả nhà tù ngục, trại giam nhốt con người đều bị chôn vùi dưới mộ địa, không còn tồn tại trên mặt đất thân yêu này nữa :
Mai kia dù chế độ nào
Một trăm một triệu phong trào đi qua
Làm sao tất cả chúng ta
Chỉ còn trông thấy mồ ma nhà tù
Nằm trên trái đất vi vu
Bao la trời biển tiếp thu tình người
Với tâm hồn thi nhân tuyệt hảo, vô cùng phong phú đó, Sơn Núi nhào lộn vào cuộc tồn sinh, giáp mặt trăm bề nghìn phía, từng băng qua lội nát mọi chân trời triết lý Đông Tây kim cổ, ngưỡng mộ triết gia Héraclite, tôn sùng văn hào Dostoevsky và nhất là rất thích ưa thưởng thức những hương ngàn cỏ nội, kỳ hoa dị thảo của thục nữ mười phương như có lần thi sĩ bày tỏ rõ ràng : “Ngưỡng mộ Héraclite, Dostoevsky và Simone Weil. Yêu chim chóc và cỏ cây một cách lạ lùng nhưng cũng quá cần ngửi mùi quần áo lót của đàn bà và con gái, cần khẩn thiết và triền miên cho tới ngày chui xuống lỗ…” Chao ơi ! Mới nghe nhà thơ nói thật lòng thật dạ một cách thiệt tình không giấu giếm như thế, khiến ai cũng phải bật cười thú vị. Vì dường như hầu hết thiên hạ người đời trên cõi ta bà tục lụy này đều thích làm chuyện ấy mà chẳng dám nói ra đó thôi. Họ mắc cỡ, cố làm ra vẻ đạo mạo nghiêm trang, điệu bộ mẫu mực chững chạc đàng hoàng  nhưng bên trong lòng dạ thì bị ức chế điều đó lắm, vẫn ham muốn thèm khát âm thầm. Nhằm khai mở những ức chế không đáng có đó, thi nhân vén lên tấm màn che đậy để hiện bày ra sự thật trần truồng qua cách nhìn nghệ thuật mỹ cảm hiện sinh tinh tế, bằng sự rung động bồng tênh cảm khoái, ly kỳ gay cấn rất mực chịu chơi kiểu Alexis Zorba hòa tấu cung đàn  santuri rộn rã tiếng cười hoan lạc chuyện gái trai :
Trên rừng ấy một mình anh hái trái
Đang mơ màng trông thấy quá nhiều chim
Bên mương vắng em vén quần sắp đái
Anh thấy càn khôn rụng xuống trong tim

Anh sẽ đến bất ngờ ai biết trước
Miệng khô rồi nẻo cực lạc xa xôi
Ôi một đêm bụi cỏ dáng thu người
Em chưa đái mà hồn anh đã ướt

Không biết trong mơ em còn mắc cỡ
Một đêm vàng rúng động giấc thanh tân
Dưới chăn chiếu thiên nhai lồ lộ mở
Em đái dầm ướt sẫm cả trần gian

Giữa khuya đó em bàng hoàng tỉnh dậy
Cả mặt hồ tràn ngập ánh sao băng
Khắp trong người em máu nóng đang căng
Xao xuyến quá em tuột quần xuống đái

Bắt đầu thở là bắt đầu hạnh phúc
Không bao giờ anh nói dối em đâu
Ôi bất động ngàn năm thân gỗ mục
Cửa tồn sinh em hãy mở cho lâu
Tất cả chúng ta ra đời được là nhờ cửa tồn sinh kỳ diệu đó, cái cửa mình của người phụ nữ mà Mật Tông Tây Tạng ví như đóa hoa sen thơm ngát mọc lên từ đáy ao hồ đầy bùn lầy nhầy nhụa làm tỏa hương thanh khiết cho đất trời. Bất cứ bậc giáo chủ, hoàng đế, thượng sĩ, vĩ nhân nào trên mặt đất trần trụi này thì cũng đều khai sinh ra từ cái nụ liên hoa mầu nhiệm đó mà thôi. Ơi hương đời luôn luôn mới lạ nhiệm mầu ấy, thi nhân tha hồ thưởng thức rực nồng hơi ấm âm dương bay phưỡng phất đậm đà hòa quyện giữa nhật nguyệt phập phồng hoan lạc ngát lâng lâng :
Đây lứa cỏ của mùa trăng thứ nhất
Đưa anh vào trong cõi mộng xa xăm
Giọt tinh huyết ngàn năm sau chưa mất
Rừng đông phương mù mịt dấu em nằm

Anh mường tượng ngày kia anh chứng ngộ
Đang cởi quần hai mắt lệ rưng rưng
Ôi quá biết tử sinh đều thống khổ
Ở trên giường em vẫn nẩy bưng bưng

Thở hổn hển là bắt đầu sướng nhất
Cỏ cây nằm im bẹp giữa hôn mê
Giường tre cũng rung rinh như trái đất
Nên suốt đời tôi thích ở nhà quê  
Thà ở nhà quê, thà làm thằng chăn trâu mộc mạc hoang dã, sống thiệt tình với chính bản chất của mình như Alexis Zorba tha hồ nhảy múa, đùa chơi cùng toàn thể mộng đời với xiết bao cô em mọi nhỏ, thẹn thò thôn nữ bờ mương, xiết bao hồng nhan thục nữ yểu điệu tuyệt trần, diễm huyền tiên nữ, thiên hương quốc sắc giai nhân, thuyền quyên tuyệt mỹ nhu mì. Rồi đôi khi rảnh rỗi, ngồi ngẫm nghĩ cái gì đó mà hứng khởi trầm trồ :
Cái lỗ
Tối cổ
Ồ thì ra, thì ra chính cái đó là mối giềng mở ra cả miên trường, vạn đại cõi dục giới trùng trùng sinh diệt mãi mãi :
Cái lỗ của em
Cùng với cái lỗ huyệt
Mở ra hai đầu sinh tử bất tuyệt
Biết quán chiếu về cái lỗ tối linh có từ thượng cổ ấy cùng với cái lỗ huyệt, tức là quán chiếu triệt để vấn đề sinh tử trọng đại, còn hơn là chễm chệ phì nộm nặng nề ngồi bệ vệ trên ghế nệm sa lông trong tường cao cổng kín phòng máy lạnh, bày đặt huênh hoang hội thảo quốc gia này đến hội thảo quốc tế nọ, để luận bàn về chiến tranh hay hòa bình, tình yêu hay tính dục, tư bản hay cộng sản, duy tâm hay duy vật, Phật hay Chúa, tà hay chánh, thánh hay phàm, thiện hay ác, hữu hay vô…  bất tận không ngừng :
Luận về không hay có
Đâu bằng nhìn cái mồng của em
Sắp ló
Cái mồng là ẩn ngữ gay cấn ly kỳ, lung linh chập chờn không rõ hình dạng, thoáng ẩn thoáng hiện trong cách sử dụng tài tình nghệ thuật ngôn ngữ của thi sĩ. Tuy nhiên, có lúc cũng cần chỉ rõ trực tiếp ngay vào chỗ đó để gợi hình gợi cảm, cho nên nhà thơ cứ hồn nhiên nói thẳng một cách gây ấn tượng, chẳng hề e dè e ngại :
Cái lồn
Chúa ồn
Ồ ồ, độc nhất vô nhị, chỉ duy nhất một cái đó thôi mà toàn thể nhân loại từ cổ chí kim đều chìm đắm, đam mê đến độ túy sinh mộng tử. Bao nhiêu triều đại hưng phế, bao nhiêu công hầu khanh tướng, xương chất thành núi, máu chảy thành sông ướt đẫm dòng dòng sử lịch cũng vì muốn chiếm hữu, giành giật, hưởng thụ, thỏa mãn cái đó mà thôi. Thật ra, nhìn từ bình diện khác thì cái đó là linh vật, vật thiêng, là thần Vệ Nữ như người dân Ấn Độ thờ phượng trong các đền điện tôn nghiêm, hay ở thánh địa Mỹ Sơn, Việt Nam cũng thờ linh vật Linga ấy. Còn“Chúa ồn” có nhiều nghĩa ẩn dụ, hàm ý ví von, có thể hiểu cái đó là vị chúa tể sinh ra đủ thứ ồn ào, lộn xộn trong cõi ta bà, dục giới này hay là gì gì đó cũng được, mặc sức tự do cho chúng ta hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau, chẳng cần bận tâm thắc mắc, đắn đo do dự, rắc rối lôi thôi chi cả, cũng như :
Củi
Để chẻ
Gái
Để xẻ
Té ra là như thế ! Mấy nhà đạo đức giả chắc sẽ đỏ mặt, nghiến răng chửi thề đồ dâm dục tục tĩu, nhưng khoan, hãy bình tĩnh để nghe triết gia thi sĩ Phạm Công Thiện nhận định : “Nói đến tình yêu, tình dục thì mọi người đều run sợ. Đạo sư Krishnamurti đã hỏi một câu rất sâu sắc : “Tại sao chúng ta biến tình dục thành ra một vấn đề ?” Tất cả đều trở thành vấn đề, ngay cả tình dục cũng trở thành vấn đề. Tại sao không để tình dục phát triển tự nhiên với tình yêu, tình thương như đóa hồng hé mở với giọt sương mai ? Tình dục không phải chỉ là cảm giác, tình dục là sự trôi chảy tự nhiên từ Nguồn Suối Tình Thương Bao La của Sự Sống.”**** Có lẽ xưa nay chưa từng có ai trên thế giới phát hiện ra một chân lý đơn sơ giản dị mà khổng lồ như Sơn Núi đã phát hiện độc đáo Vậy thôi chứ còn đòi cái gì nữa :
Mộ
Một nấm
Hai núm
Chỉ cần sáu từ ngắn gọn thôi, thi nhân đã lột tả toàn diện, nói lên được toàn thể sự sống và sự chết muôn đời của kiếp nhân sinh trên quả địa cầu tròn đang quay lông lốc giữa không gian.
Chàng thi sĩ xuất hiện trên diễn đàn văn nghệ như một hiện tượng lạ, một quái kiệt thiên lôi sấm sét, có cách ăn nói lạ lùng bộc trực, khinh bạc khác thường, bàng bạc ngát hương tình tính dục, rung động hòa âm đậm đà chất lửa linga cháy nồng nàn hơi ấm âm dương. Bằng cái giọng ngang tàng quyết liệt, gây ấn tượng nổi bật vì chuyên gây hấn, tấn công những bọn côn đồ khát máu, bọn người ngợm đội lốt tôn giáo, văn nghệ để làm những chuyện xằng bậy, gian trá quỷ quyệt, lợi dụng rủ rê mê tín, bắt người ta thờ lạy đấng thượng đế tối cao, bậc thần thánh  tối hậu ở đâu đâu mù mịt xa lắc tận trên chín tầng trời, gieo rắc bao nhiêu nỗi sợ hãi cho rất nhiều người nhẹ dạ. Làm gì có những cảnh giới thiên đường, tây phương cực lạc ở trên đó. Có lần bất nhẫn điên tiết, chàng gầm lên la hét thật to :
Tôi định một ngày nào đó
Thật thảnh thơi
Leo lên trời
Ỉa
Chán ngấy muốn lộn mửa cái cảnh ngoài miệng thì nói bô bô đủ thứ chuyện thiện lành thánh thiện, bác ái vị tha, lương tâm đạo đức nhưng bên trong tâm địa thì hắc ám đầy hiểm ác gian manh kiểu Hoạn Thư : “Mặt ngoài thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không dao.” Ngao ngán loại người ngụy quân tử như Nhạc Bất Quần nói một đường làm một ngã, đeo mặt nạ giả danh pháp sư, nhà truyền giáo, chuyên môn lừa đảo tinh vi quỷ quái vẫn còn hoạt động rộn ràng phát huy môn phái, mở rộng nhà ma cửa quỷ, hoằng dương tà đạo loạn xà ngầu bát nháo lao xao  :
Người ta giấu cái đạo
Trong hũ gạo
Trời ơi !
Đó là một sự thật cay đắng, bất đắc dĩ thi sĩ phải nói ra, khiến cho bọn đạo đức giả tức hộc máu, không biết làm chi hơn gán ghép chàng là kẻ phá hoại, báng bổ thần thánh, tên du côn hoang đàng ngạo mạn, đồ man di mọi rợ, điên khùng… Chúng không biết rằng, trong thơ văn chàng trái lại, chứa chan tràn đầy tính chất trữ tình lãng mạn, ăm ắp niềm yêu mến thiên nhiên, yêu thương nhân loại, mở ra bầu không khí trong lành khoáng đãng tự do hít thở, bằng cái giọng rất tân kỳ mới lạ quá đỗi đặc biệt quyến rũ một cách bất ngờ. Cái giọng thơ phiêu bồng độc đáo vô song xưa nay chưa từng thấy. Thơ văn chàng bắt đầu đăng tải nhiều trên các tạp chí Khởi Hành, Bách Khoa, Sáng Tạo, Thời Tập, Thời Nay, Trình Bày, Đối Diện, Mai, Văn, Văn Nghệ, Thế Kỷ Hai Mươi…
Thời kỳ đó là vào khoảng năm 1960 đến 1975 sinh hoạt văn nghệ Sài Gòn, thủ đô miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ đang chuyển mình thăng hoa huy hoàng, phát triển rầm rộ về mọi mặt. Hàng ngàn tác phẩm thơ văn, nhạc họa, dịch thuật đủ thể loại kim cổ Đông Tây thi nhau xuất bản, ấn hành mạnh mẽ. Nổi bật nhất là các khuôn mặt Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nhất Hạnh, Nguyễn Đức Sơn, Tuệ Sỹ, Phạm Thiên Thư, Hoài Khanh, Thạch Trung Giả, Trúc Thiên, Cung Trầm Tưởng, Tường Linh, Nguyễn Duy Cần, Tam Ích, Nguyễn Đăng Thục, Đông Hồ, Lê Văn Siêu, Quách Tấn, Ngô Trọng Anh, Sơn Nam, Nguyễn Hiến Lê, Võ Hồng, Bình Nguyên Lộc, Giản Chi, Nghiêm Xuân Hồng, Như Hạnh, Trần Công Tiến, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Cung Tiến, Hồ Thành Đức, Đinh Cường, Đỗ Hồng Ngọc, Kim Định, Hoàng Ngọc Châu, Trụ Vũ, Vũ Hoàng Chương, Thi Vũ, Trần Xuân Kiêm, Kim Tuấn, Trần Tuấn Kiệt, Kiêm Thêm, Trần Thanh Hiệp, Kiêm Minh, Hồ Minh Dũng, Thế Uyên, Nguyễn Xuân Hoàng, Huy Tưởng, Nguyễn Tôn Nhan, Thế Viên, Hoàng Ngọc Tuấn, Luân Hoán, Doãn Quốc Sỹ, Đinh Hùng, Hoàng Trúc Ly, Mai Thảo, Cung Tích Biền, Viên Linh, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Nguyễn Hữu Hiệu, Võ Phiến, Tô Thùy Yên, Vương Tân, Nguyễn Tất Nhiên, Duyên Anh, Trần Phong Giao, Bửu Ý, Nguyễn Đình Toàn, Hoàng Lộc, Phan Nhật Nam, Quách Thoại, Trần Dạ Từ, Chu Tử, Thùy Dương Tử, Huy Trâm, Võ Chân Cửu, Thạch Chương, Vũ Hữu Định, Linh Phương, Nguyễn Lương Vỵ, Mường Mán, Dương Nghiễm Mậu, Thành Tôn, Đặng Tấn Tới, Đặng Tiến, Nguyễn Bắc Sơn, Tạ Tỵ, Ngô Nguyên Nghiễm, Tạ Ký, Du Tử Lê, Thế Phong, Đynh Trầm Ca, Nhật Tiến, Hạc Thành Hoa, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Trần Thị Tuệ Mai, Phùng Khánh tức Thích Nữ Trí Hải…
Năm 1965 Tạp chí sáng tác văn nghệ Mặt Đất do Nguyễn Đức Sơn chủ trương ra đời, lồng lộng phóng khoáng một luồng gió mới lạ thổi qua mặt đất, gây nên một trận bão hào hứng xôn xao trong giới văn nghệ sĩ, nhưng rất tiếc chỉ ấn hành được dăm bảy số rồi nghỉ vì nhiều lý do ngoài ý muốn. Buồn bã không còn đất dụng võ, tung hoành ngang dọc trên mặt trận văn chương nữa, thi sĩ buông mình xuống dòng đời trôi lênh đênh như nhánh rong phiêu bạt qua những gập ghềnh suối thác miên man sáng tạo trong cô đơn cố hữu thầm thì giữa thiên địa Mang mang :
Mang mang trời đất tôi đi
Rừng im suối lạnh thiếu gì tịch liêu
Tôi về lắng cả buổi chiều
Nghe chim ăn trái rụng đều như kinh
Còn một mình hỏi một mình
Có chăng hồn với dáng hình là hai
Từng trưa nằm nghĩ đất dài
Phiêu phiêu nhẹ cái hình hài bay lên
Mù sương âm vọng tiếng huyền
Có con dơi lạ bay trên cõi đời
Sau xưa mắt đã ngợp rồi
Tôi nghe tôi chết giữa trời thinh không
Sống và chết cùng song hành bước đi chênh vênh bên vực thẳm tồn sinh. Thấm thía rợn cả người trước sự tàn bạo, vô nhân đạo của cuộc chiến tranh tương tàn tương sát đang diễn ra khốc liệt trên khắp quê hương Việt Nam, nhà thơ tìm đủ mọi cách để không bị nhà cầm quyền bắt đi lính ra chiến trường bắn giết dã man nên thường tá túc trong các chùa chiền liêu vắng hay các xóm nhà lá tồi tàn xơ xác. Hát khúc giang hồ ca bạt mạng lên rừng xuống biển, xuôi ngược trăm miền rồi cát bụi mệt mỏi tấp về Bình Dương, dạy học tiếng Anh ở mấy trường tư thục Bồ Đề, từ năm 1965 đến 1967. Thời gian ở đây, bất ngờ kỳ ngộ nàng thơ Nguyễn Thị Phượng trong chùa Tây Tạng, một tiên nữ giáng trần diễm tuyệt, khiến cho chàng thi sĩ rúng động cả thần hồn, rồi xuất cốt thành tác phẩm Đêm nguyệt động đầy chất thơ mộng, gồm 17 bài thơ trữ tình mỹ lệ để đánh dấu năm 17 tuổi của người tình vĩnh cửu yểu điệu dáng thơ gầy thục nữ đoan trang :
Năm mười sáu em bắt đầu thấy rát
Khắp trong người rờn rợn máu đang căng
Hồn hoa đã động tình đêm thứ nhất
Em đến nằm phơi mộng giữa vườn trăng

Trong bóng lá anh thấy mình chết điếng
Cả xác thần rời rụng bãi cô liêu
Từ dạo đó anh đâm ra lười biếng
Bởi mộng đời còn lại có bao nhiêu

Anh chưa nắm tay em mà muốn chết
Trong khu rừng huyền hoặc của chiêm bao
Ôi hạnh phúc mong manh như sắp hết
Giữa đêm nào trăng thở quá xôn xao

Anh quỳ xuống dưới vòm trời khao khát
Dù thật lòng em chưa muốn cho xem
Đời anh đó đâu lớn bằng hạt cát
Đã vô tình vương dưới gót chân em
Em về em hiện, em đến như tiếng sét ái tình làm bùng vỡ tâm thức rực ngời lửa âm dương cháy đỏ, cho nên đám cưới được tổ chức tức thì ở ngay trong chùa Tây Tạng, lúc chàng vừa đúng 30 tuổi. Buổi tiệc chay đám cưới đó, có Phạm Công Thiện, khoa trưởng Văn khoa Đại học Vạn Hạnh, nhà văn Bửu Ý, nhà thơ Nguyễn Miên Thảo và Thanh Tuệ, giám đốc nhà xuất bản An Tiêm tham dự. Từ đó đến nay Sơn Núi vẫn tiếp tục ăn chay trường vì một lý do dễ hiểu là thương yêu những con chim, con cá, những con gà, con vịt, con hươu, con nai, con dê, con khỉ, con heo, con chó, con bò, con trâu… Không nỡ lòng nào ăn tươi nuốt sống, cắt cổ mổ bụng uống máu các loài động vật rất thân thiết gần gũi ấy được. Thương yêu đến độ như thế là  nhân đạo vô cùng vô tận rồi, yêu thương từng con cò, con hạc, con ngỗng… huống chi là con người phải không ? Không thể nào không rùng mình ớn lạnh, tê buốt cả thịt da khi đi ngang qua những đường phố ồn ào náo nhiệt tràn ngập quán nhậu vỉa hè, thấy nam nữ già trẻ bu quanh lò sát sinh ăn nuốt nhai nghiến ngấu ruột gan phèo phổi mà chạnh xót xa đau :
Những quán nhậu
Cứ bu quanh lò sát sinh
Thừa hưởng ruột gan phèo phổi
Đâu đến nỗi
Của mình
Tình cảm tự nhiên, tính thuần thiện thiên lương rất đỗi từ bi từ ái, lân mẫn của thi nhân là vậy. Ngày tháng dạy học ê a cho qua thời kỳ trốn quân dịch, nhờ tình yêu dịu dàng nở rộ thành một tổ ấm thâm thiết mặn nồng nên nhà thơ cũng cảm thấy phúc hạnh rưng rưng qua từng Kỷ niệm Bình Dương :
Những chiều sẫm tối anh về
Em ra lớp học đi kề vai anh
Một thân áo cánh mong manh
Hôn nhau lệ nhỏ trung thành cho nhau
Cầm tay ta bước đi mau
Hình như bố ráp đằng sau xóm này
Nhìn nhau bụng trống một ngày
Mà sao hạnh phúc giăng đầy nhà thôi
Nửa khuya sao chiếu đầy trời
Ở trong thiên cổ anh ngồi bên em
Qua từng đêm trữ tình, êm đềm du dương, dịu dàng khoan thai Hoài Cảm :
Những ngày anh sống bên em
Những trưa tóc ngủ êm đềm biết bao
Những lần em ốm xanh xao
Những oan khiên dẫn anh vào đau thương
Những đêm hạnh phúc vô lường
Đố em cây cỏ bên đường biết không ?
Đố cho vui vẻ sum vầy vậy thôi, chứ thực ra chẳng cần em phải trả lời đâu nhé, em yêu :
Nhiều khi anh nghĩ thật mừng
Tưởng đâu trời đất vô cùng em ơi !
Cảm ơn sóng vỗ bời bời
Anh ru hạnh phúc đời đời bên em
Trăm năm một giấc êm đềm
Trăng soi tuyệt đối bên thềm hư vô
Em ơi em hỡi nàng thơ thùy mị, em đẹp chi là đẹp mị kỳ duyên dáng dịu dàng vô biên tuyệt diễm, khiến cho kẻ du sĩ lang thang đang mang cả khối sầu vạn cổ bỗng nghe tan biến hết mọi ưu phiền sầu não, một cách mầu nhiệm xiết bao, khi em đem về ngan ngát hương xuân ngạt ngào thấm đượm dạt dào khung cửa sổ bên song :
Em đang thay áo trong phòng
Hương xuân bay tỏa sóng lòng tôi đâu
Vú thon quá độ nhiệm mầu
Trộm nhìn quên hết ưu sầu thế gian
Tiêu luôn cả cõi niết bàn
Bắt tay chào nhé cái màn vô minh
Vô minh hay niết bàn chỉ là những danh từ khái niệm hư ảo mà thôi, thi sĩ chẳng bận tâm chi lắm. Tắm mình trong mưa nắng đẫm ướt phong trần, sống thường trực trên tinh thần cảnh giác cao độ, bức bách vây khổn bốn bề trăm phía giữa thời buổi loạn ly chinh chiến, bom đạn nổ tứ tung đe dọa mạng sống hàng ngày như vậy nhưng nhà thơ vẫn thở đều đặn bởi hơi ấm rực ngời của ngọn lửa tịch mịch sáng tạo luôn luôn ngún cháy giữa cuộc lữ phiêu linh. Chính vì thế mà các tác phẩm thi ca tha thiết nồng nàn thấm đẫm ruột rà tim phổi máu lệ lần lượt ra đời như Bọt nước, Hoa cô độc, Lời ru, Đêm nguyệt động, Vọng, Mộng du trên đỉnh mùa xuân, Tịnh khẩu, Du sĩ ca… và những tập truyện ngắn sâu sắc hàm súc rung động lòng người, phản ảnh nhiều mặt của đời sống chung quanh như Cát bụi mệt mỏi, Cái chuồng khỉ, Xóm chuồng ngựa, Ngồi đợi ngoài hành lang với tập tiểu luận duy nhất Mười lăm năm thi ca miền Nam chưa kịp xuất bản thì xảy ra biến cố vô thường dâu biển năm 1975.
Tâm đắc với tư tưởng đại văn hào Dostoievsky : “Tôi sợ phải tỏ ra có tâm hồn cao thượng.” Hay với Nikos Kazantzakis : “Hãy cứng rắn, kiên nhẫn, chịu khó…Hãy khinh bỉ hạnh phúc.” Và nhất là với Henry Miller : “Một thi nhân chân chính đích thực thì luôn luôn độc hành, tự do tự tại. Cái mà người thi sĩ cần chính là sự cô độc cô đơn.” Sơn Núi im lặng mặc như lôi, vẫn ngẩng cao  đầu một cách lẫm liệt, tuyệt nhiên không thèm gia nhập bất cứ hội đoàn đảng phái, bè lũ đám đông, tập thể phe nhóm nào cả. Lặng trầm tách biệt riêng ra, đứng độc lập, lầm lì bước đi một mình một bóng như sư tử rừng xanh, khiến những bè lũ cáo chồn đâm ra đố kỵ nghi ngờ ganh ghét, chẳng dám lại gần, đứng xa xa mạ nhục chửi rủa cho thỏa cái thói tật sân si ganh tị.  Chàng thi sĩ lại càng dấn mình vào nẻo thâm sơn rờn lạnh cô đơn cùng tuyệt, heo hút tận chốn miền chẳng có đâu nơi :
Có bay cao chin tầng trời
Chỉ nghe thượng đế ngàn đời nín thinh
Có dòm sâu tận cửa mình
Cũng không thấy được cái hình thế gian
Cái hình thù thế gian như thế nào khó mà thấy cho rõ ràng được, nhất là sau trận dâu biển vô thường 1975. Trong khi hàng ngàn người bị đi học tập cải tạo, đi lao động kinh tế mới, hàng triệu người sợ hãi vượt biên giới trùng dương ra nước ngoài thì Nguyễn Đức Sơn đơn độc lặng lẽ rời Sài Gòn đưa vợ con lên núi rừng Đại Lào ở Bảo Lộc, Lâm Đồng, sống trên đồi Phương Bối Am, nơi chốn cũ ngày xưa thiền sư Nhất Hạnh đã khai phá dựng lập từ năm 1958. Bây giờ trơ trọi ngọn đồi hoang vu cây cỏ dại mọc um tùm, chỉ còn một cái hồ chứa nước bằng xi măng hình chữ nhật cũng đủ cho cả gia đình thi nhân tạm trú trong đó. Có đến tận nơi chứng kiến cảnh đời hiu hắt khắc nghiệt của thi sĩ thì mới hiểu nổi hai câu thơ tiên tri đã viết tự bao giờ : “Sinh ra tôi có làm thơ. Để điêu linh vẫn như chờ riêng thôi.” Vâng, điêu linh trầm thống vẫn bám theo đọa đày vây khổn một hồn thơ tơi tả rã rời :
Buổi tối đó bầu trời như muốn ngã
Tôi một mình ôm lấy bóng trăng tan
Mây thấp quá và hồn tôi tối quá
Không chỗ nào thở được dưới trần gian
Ơi chao ! Dù sống trong tận cùng thống khổ tang thương, nhưng thi nhân vẫn chịu đựng một cách nhẫn nhục phi thường, tự biến lòng mình thành đại dương sâu thẳm, chấp nhận chất chứa và tiêu dung tất cả mọi thứ cặn bã của thế gian trút xuống, giống như họa sĩ vĩ đại Van Gogh : “Đau khổ không than van là bài học duy nhất chúng ta phải học trong cuộc đời này.” Sơn Núi cũng vậy, chưa bao giờ nghe chàng than thở, oán hờn chi cả mà cứ lầm lũi sớm chiều bằng chiếc xe đạp cọc cạch vào rừng kiếm củi khô chở xuống chợ Blao đổi lấy gạo muối đem về. Thế đó, một cuộc đời vô cùng thanh bạch, hết sức giản dị đơn sơ, rất bình thường chẳng có gì cả ngoài một hồn thơ vẫn trào dâng bao nỗi niềm chi thao thức nhức nhối quá diêu mang :
Về đây say với trăng ngàn
Phiêu diêu hồn ngập giấc vàng đó em
Trăm năm bóng lửng qua thềm
Nhớ nhung gì buổi chiều êm biến rồi
Mai kia tắt lửa mặt trời
Chuyện linh hồn với luân hồi có không
Thái hư chừng sắp chuyển vòng
Đại dương tràn kéo núi đồng tan đi
Chúng ta giờ ước mong gì
Văn minh gởi cát bụi về mai sau
Thấu suốt tương lai như thi sĩ tiên tri thấu thị Rimbaud đã từng thấy, ngày mai đây “sa mạc lan dần” trên mặt đất hoang vu, thấy rõ tận tường cõi người ta giữa thời đại văn minh cơ khí đang dần dần máy móc hóa con người, bọn hãnh tiến trên toàn thế giới đang muốn biến con người thành những công cụ để sử dụng theo ý đồ độc tài nào đó, thi nhân vất bỏ sạch sành sanh hết thảy mọi sự xuống đống rác thành phố khô kiệt, đơn độc quay về với thiên nhiên rừng núi, cúi xuống quỳ hôn lòng đất mẹ, hít thở cùng mây trắng trăng ngàn sương khói cỏ hoa và đốt lên ngọn lửa tịch mịch quanh đây. Ngày ngày lủi thủi cuốc đất làm rẫy trồng thông, gieo hạt giống mầm chồi xanh tươi mới. Thế rồi hàng ngàn cây thông đã phủ kín triền đồi thành một cánh rừng thông xanh rợp ngời bóng mát để cho hoa cỏ bướm vàng hát ca lặng lẽ vô thanh giữa đất trời tự tại một mình một cõi tự do  :
Được làm một sinh vật tự do
Cho đến chết
Tôi quyết không lết
Cũng không bò
Như hầu hết đồng loại hai cẳng
Cứ suy tư nhưng cứ giống chó
Đó đó
Đó
Thái độ vô úy không sợ hãi trước thế cuộc hỗn mang là một thái độ hùng tráng mà người thi sĩ đơn thân độc mã thể hiện giữa thời buổi dầu sôi lửa bỏng, đất bằng dậy sóng ngả nghiêng làm đảo lộn hết mọi thứ giá trị cao quý, nhất là giá trị tinh thần đạo đức cũng xuống cấp trầm trọng, hầu như không còn đất đứng nữa rồi. Ngay trong giới tu sĩ Phật giáo, hình ảnh tiêu biểu, tượng trưng cho đạo đức con người cũng mất đi ý nghĩa tốt đẹp, bởi đa số đều hướng ngoại tầm cầu, chạy theo hào nhoáng âm thanh sắc tướng bên ngoài, vô tình biến Phật giáo thành Độc thần giáo, xem Đức Phật như vị thần linh ban phước giáng họa. Họ đem Phật, Tổ ra kinh doanh  đủ mọi hình thức, tranh nhau làm thầy phong thủy, thầy cúng, thầy bói coi tướng, đoán vận mệnh, xem nhà cửa bếp núc, cúng sao giải hạn, đua nhau tạc tượng Phật khổng lồ, xây chùa đồ sộ nguy nga rộng lớn, dựng tháp hoành tráng cố đạt hạng nhất để được xếp vào kỷ lục guinness, nhằm mục đích phục vụ “du lịch tâm linh.” Quá vô ích vô nghĩa, phi lý nhất là những cái tháp xây lên tốn bạc tỷ, chỉ để chuẩn bị khi chết, họ vào nằm rục xương cốt trong đó. Họ cũng ráo riết chạy theo bằng cấp, bon chen giành giựt chức vụ lãnh đạo tăng đồ, lập hội này nhóm nọ lu bù gọi là Phật sự, tìm cách phát triển kinh tế riêng tư, hưởng thụ đủ thứ danh lợi thế gian và hèn nhát toa rập làm công cụ cho các thế lực vô minh, tiếp tay đưa Phật giáo vào chỗ bạc nhược suy đồi :
Tôi có biết nhiều thiền sư
Rất được lòng quần chúng
Nhờ liên hệ tưởng xa mà gần
Với đủ các loại súng
Đúng là như vậy đó, ai cũng xem thường, khinh bỉ khi nhìn thấy nhiều vị tăng sĩ đi xe hơi tới Mặt trận Tổ quốc, tới Quốc hội, ngồi lơ láo thảo luận với các đảng viên chính trị về các vấn đề tham nhũng hối lộ, về dân số tăng nhanh, về giáo dục suy thoái, về kinh tế suy sụp, về kế hoạch sinh đẻ, về tệ nạn xã hội…Rồi hô hào tín đồ hãy chấp hành mọi chủ trương đường lối, cố tu phước gắng niệm Phật cầu nguyện chết về niết bàn, hưởng cảnh cực lạc phương tây mơ hồ nào đó, còn sống thì phải tốt đời đẹp đạo…Thật là lố bịch làm sao ! Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn tuy cũng có vài đứa con đi xuất gia nhưng đành phải nói lên mặt trái của một số tà sư quốc doanh thời bây giờ đấy thôi. Dù tịnh khẩu lâu rồi mà vẫn muốn gầm lên một tiếng cho khỏi day dứt quằn quại :
Nói
Ói
Mỗi lần nói là mỗi lần muốn ói mửa nhưng cũng đành phải nói thôi, Sơn Núi cứ khẳng khái nói cho những ai còn chút tối thiểu lương tâm nghe ra một sự thật đau lòng nhất, đó là chỉ có vi trùng trong thân sư tử mới ăn thịt sư tử, cũng như vậy, chỉ có tăng sĩ mới có thể phá hủy, phá hoại Phật giáo chứ tuyệt nhiên chẳng phải ai cả, chẳng có thế lực bạo quyền nào nhúng tay vào được cả. Đây là những lời thơ tâm huyết chỉ thẳng vào sào huyệt những kẻ giả danh tăng sĩ, bọn nội trùng Phật giáo cuồng đức loạn tâm :
Về đi thôi kiếm chỗ nằm
Mõ chuông đang nện trăng rằm ngất ngư
Thiền sư ăn thịt thiền sư
Niết bàn nhiều giống chân như nhiều nòi
Tâm teo tóp trí cọc còi
Ma đang thuyết pháp quỷ đòi giảng kinh
Kìa em tịnh thủy một bình
Cửa Không ai viếng cửa mình tôi thăm
Kinh khủng thật, chỉ có Sơn Núi mới đủ khí phách hùng tâm tráng khí, cá tính khốc quỷ kinh thần, bộc trực can trường mới dám sấm sét thẳng thắn chỉ trích ngay vào mặt, chẳng vị nể làm bộ giả đò cung kính gì cả, thích nói là cứ nói ào ào ra vậy thôi. Đôi khi “dĩ độc trị độc” cũng cần thiết lắm phải không ? Không những tấn công kẻ ác quỷ tà ma mà nhà thơ còn muốn bạt tai bọn triết gia kinh viện suy tư thiếu máu, chính bọn này bày đặt ra đủ thứ chủ nghĩa này, học thuyết nọ… vô tình làm băng hoại và ám sát cả nhân loại suốt từ nghìn xưa cho đến hôm nay :
Tại sao
Thơ cứ mênh mông hát
Khi trái đất
Đang bị băm nát
Bởi đủ loại triết gia kinh viện
Chưa bị ai
Tát
Tát tai, đá đít là một cách nói gây ấn tượng kiểu sấm sét Nietzsche, phá hủy đạp đổ hết mọi thần tượng hư ngụy, biểu lộ thái độ tống xuất bọn lưu manh đểu giả, chuyên môn ném đá giấu tay, ngậm máu phun người, những kẻ ma cô xảo trá, lập lờ tráo trở đánh lận con đen trên trận đồ đảo điên của những cái gọi là chủ nghĩa, học thuyết, tôn giáo, văn hóa, văn nghệ bây giờ :
Khách đến
Sao ta hết thiết tha
Ngồi ỉa
Bởi
Cách gò mối không xa
Không phân biệt nổi người hay ma
Có theo tôn giáo học thuyết hay chủ nghĩa nào không nhỉ ?
Nheo mắt già nhìn kỹ
Rất hy vọng không phải điếm đĩ
Trên trận đồ văn hóa nội ngoai đảo điên
Để khỏi thương cho sự ra đời
Thiếu suôn sẻ tự nhiên
Của thỏi vàng nhão
Từng bị a dua tra khảo
Quá tội nghiệp
Ừ quả là đáng tội nghiệp thay ! Trước thảm cảnh bi đát đang xảy ra trên toàn cầu khắp mặt đất trầm trọng đau thương, cả thế giới đang bị đủ thứ vũ khí tối tân bằm nát bấy ra như thế, thi sĩ cắt cớ lại đi bày tỏ với các đấng giáo chủ xưa nay một nhận xét tưởng như rỡn đùa chơi :
Hỡi các Đấng Giáo Chủ Kim Cổ
Dù Đạo của các ngươi
Thành hay không thành
Cỏ mộ
Vẫn cứ xanh
Thành thật nêu lên một nhận xét tinh tế như thế, không biết các đấng gọi là giáo chủ kia có chịu nghe hay không ? Bởi vì :
Nếu không có ma
Khó bề thấy được Phật
Đó là sự thật của trái đất
Nhưng nghĩ cho cùng tất cả đều trật lất
Thật vậy, trong khi cả nhân loại đang chờ đợi một vị cứu tinh xuất hiện, Tây phương cầu nguyện Thượng Đế giáng thế, Đông phương hy vọng mong chờ Phật Di Lặc xuống trần, còn Sơn Núi thì niêm hoa vi tiếu, phiêu phiêu làm thơ chơi :
Xe chênh bánh giữa luân hồi
Ưu bi chở ngập bến trời bao la
Ngày chưa sập bóng ta bà
Đã nghe chừng Hội Long Hoa đến rồi
Một chàng Di Lặc xa xôi
Một tâm ảo tượng tôi ngồi thâu đêm
“Một tâm ảo tượng tôi ngồi thâu đêm” cũng đủ chỉ ra tất cả mọi sự nguyện cầu, hy vọng mong chờ kia đều hoàn toàn vô nghĩa phải không ? Bởi vì Phật Chúa tự bao giờ, vốn hằng hữu ngay trong lòng mỗi người chúng ta đây rồi, chỉ vì vô minh mà mình không thấy đấy thôi, cho nên mới bày ra lạy lục, cầu khẩn, khấn vái liên hồi. Trên pháp hội Hoa Nghiêm, Đức Phật đã bày tỏ phát biểu :
Nếu người muốn biết rõ
Chư Phật khắp ba đời
Hãy quán pháp giới tánh
Đều do tâm tạo thôi
“Đều do tâm tạo thôi” hay tất cả do tâm tạo là một tuyên bố vô tiền khoáng hậu, thấu suốt cổ kim, đưa con người trở lại với ánh sáng ban đầu, sống với tự tâm tự tánh. Hạnh phúc hay đau khổ, niết bàn hay địa ngục… cũng đều do chính mình tạo ra thôi, chứ tuyệt nhiên không phải do Phật trời, thượng đế nào tạo ra cả. Đây là chân lý vĩ đại mà Thế Tôn đã khai thị trên tuyệt đỉnh Linh Sơn, cách đây gần ba nghìn năm rồi. Rất tận tường, quá rõ ràng như vậy mà đa số người ta vẫn không hiểu, không thấy, cứ chạy kiếm tìm nhớn nhác, van vái bái lạy, khấn vọng mong cầu Phật Di Lặc ra đời để cứu nhân độ thế thì quả thật là tà kiến điên đảo, chao ôi ! Thôi thì, thi sĩ chỉ còn biết quay về trong niềm im lặng, lắng nghe thơ hát giữa mông mênh vũ trụ và bàng hoàng thấy mưa lộng nắng trào sơ nguyên huyền ảo :
Tôi không thể hiểu vì sao
Mà ôi chao
Nắng trào
Tịch mịch
Tịnh hồn du sĩ, quy hồi đồi cao lững lờ thơ bay đầy mây trắng. Ơi mây trắng nắng vàng hoa cỏ trổ lặng im. Trong niềm cô liêu hiu quạnh, lặng hồn nghe nắng trào tịch mịch vô vi, thi nhân nhẹ nhàng đưa chân lững thững đi đứng bồng tênh trên đồi cao Phương Bối cuối mùa thu nhìn ngắm rừng sương phiêu phưỡng lướt bồng bềnh :
Trưa đứng một mình đợi ai lên
Đất trời đâu có dưới và trên
Gò cao ổi sót rụng một trái
Dòi ăn một bên ta một bên
Hình ảnh “dòi ăn một bên ta một bên” thật cảm động, không thể nói nên lời. Phản ánh tình trạng nhà thơ đang đói, đói và đói, gian nan và khổ cực bức bách thường xuyên ráo riết đến chỗ gần tuyệt lộ. Đỗ Phủ ngày xưa chắc cũng nghèo xơ xác hàn vi đến vậy là cùng. Thế mà không biết có một phép mầu nào đó đã âm thầm trợ lực cho thi sĩ vượt qua và vượt qua mọi thử thách cực khổ gian nan một cách ngoạn mục như vậy. Giống như nhà văn Henry Miller, một đại văn hào mà Phạm Công Thiện ca ngợi tới mây xanh, rời bỏ kinh thành New York về vùng sơn thượng Big Sur quyết định không làm gì hết, ngoại trừ sáng tạo vì nhà văn nhận định rằng : “Bổn phận của thiên tài là giữ phép mầu sinh động, là luôn luôn sống trong phép mầu, là khiến cho phép mầu càng mầu nhiệm hơn nữa, là không thệ nguyện trung thành với bất cứ cái gì, nhưng chỉ sống một cách mầu nhiệm, suy tưởng một cách mầu nhiệm, chết một cách mầu nhiệm… Sự kỳ diệu và huyền nhiệm của cuộc đời bị bóp nghẹt trong chúng ta, khi chúng ta trở thành một phần tử nào đó có trách nhiệm với xã hội. ”***** Sơn Núi cũng vậy thôi, cũng rút lui về núi rừng hoang vắng tịch liêu, nằm lẫn trong sương mờ vạn cổ, gõ vào vách đá mà hát khúc hạo nhiên chi khí ca và sáng tạo, sáng tạo không ngừng qua từng hơi thở, từng tế bào mạch máu, từng bài thơ như Một mình đi luồn vô luồn ra trong núi chơi. Bài thơ này được Trương Hồng Sơn, bạn cũ của Sơn Núi rất thích như lời thi sĩ cho biết : “Ụa, hòa bình thế giới đã ló dạng từ lâu rồi sao mà một tiến sĩ Việt Nam làm việc ở Nasa là chàng Trương Hồng Sơn gật gù ngâm nga “Một mình đi luồn vô luồn ra trong núi chơi” của đãng tử Nguyễn Đức Sơn nồn này !” Bài thơ chỉ có mấy câu thôi mà hàm ý sâu xa cả một kiếp người :
Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi
Cuối chiều tà chỉ gặp bãi hoang sơ
Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân rục rã tôi đi luồn ra núi
Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô
Hư vô, hư vô, hư vô là gì mà thi sĩ rụng rời khi giáp mặt ? Phải chăng như nhà văn Hemingway, người đã từng đạt giải Nobel văn chương vào năm 1954, bị hư vô ám ảnh suốt một đời cho đến khi tự tử ? Không biết, không biết, thưa rằng chẳng biết chi mô, chỉ biết rằng nắng trào, lửa cháy tịch mịch trong lòng chàng thi sĩ kỳ dị kia rất yêu thích nghệ thuật, lấy nghệ thuật làm lẽ sống cho đời mình như có lần chàng tuyên bố trong Thay lời tựa tập thơ Tịnh khẩu : “Có sống nhiều năm ở Sài Gòn nhưng không hề thấy chút chi cái đẹp của thành phố và tự hỏi không hiểu vì sao hàng tỉ người có thể sống trong những đô thị lớn trên thế giới. Sẽ tự cứa cổ tự tử ngay nếu một ngày nào đó đầu thai lên thấy đất của các đô thị, nhà cửa và khu kỹ nghệ tràn lấn quá nửa diện tích của núi rừng, sông biển, thác suối, ao đầm hồ…Tự nhận là tha thiết với xã hội vô chánh phủ, khó có thể có trên thế giới này. Từ đó, từ đó thôi cũng dễ tắt thở rồi. Vậy chớ cái gì làm cho nó có thể còn sống được cho tới ngày nay ? Ông Phật, ông Khổng và nhất là ông Lão, đành rồi, nhưng còn một ông bao trùm hết và hốt ba ông kia bốc cao lên : Ông Nghệ Thuật.”
Đúng thế, nghệ thuật là hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng ngôn ngữ hình tượng sinh động cụ thể, gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng tình cảm tuyệt trần Chân Thiện Mỹ. Nghệ thuật là một phương tiện giúp cho chúng ta đạt tới chân lý, tới cái như thật, như thị, như như. Sự thật khách quan như thế nào nhìn đúng như thế ấy, bản chất mình như thế nào nhận đúng như thế ấy nhưng dĩ nhiên điều  kẻ sáng tạo thấy biết đó không phải là sự thực khách quan cứng nhắc khô khan mà là sự thực sinh động, rung động hơi thở sự sống, rộn ràng nhịp đập thiên thu. Như vậy nghệ thuật ở đây là hơi thở, là đạo sống đích thực, sống hoàn toàn tự do tự tại, giải thoát mọi ràng buộc, mọi trói cột vào vòng nô lệ thế gian. Người nghệ sĩ vĩ đại là biết sống thanh thản an nhiên giữa cuộc tồn sinh, dù ở trạng huống bi đát nào thì cũng không run sợ, hèn nhát, van xin, vẫn tự tin chắc nịch vào nội tâm thâm hậu của chính mình, thể hiện qua thơ văn, nhạc họa nhằm nhập diệu ngay vào cái thực tại hiện tiền, ngợi ca cuộc sống yêu thương, thưởng ngoạn cuộc đời rỗng rang vô sự. Từ cái nhìn đó, nhà thơ mở rộng lòng ra tâm sự cùng các con cái của mình một điều chi muốn dặn dò nhắn nhủ :
Mai kia tan biến hận thù
Giữa đêm sao chiếu mịt mù phương đông
Cha về ôm cả biển sông
Duỗi chân duỗi cẳng nằm không một đời
Cho con cha hứa một lời
Đuổi mây thiên cổ rong chơi tối ngày
Thu nào tóc bạc òa bay
Có con chỉ trỏ mới hay cái già
Cúi hôn trời đất đậm đà
Cha tan theo bóng trăng tà vạn niên
Nguyễn Đức Sơn mà người dân ở quanh vùng phố núi Bảo Lộc đều gọi là Sơn Núi một cách thân mật, rất thương yêu vợ con và làm thơ dành cho con cái cũng khá nhiều, bài nào cũng chắt chiu nhiều ý tứ sâu xa thâm trầm, vô cùng xúc cảm rưng rưng :
Xem cha đốt cỏ ngoài rừng
Nâng niu mẹ ẳm theo mừng không con
Có vài chiếc lá còn non
Gió xua lửa khói nổ giòn trên không
Nắng tà trải xuống mênh mông
Bước theo chân mẹ cha bồng hư vô

Nắm tay lật úp đi con
Co thân tròn trịa như hòn đá lăn
Muốn cho cuộc sống không cằn
Tập cho quen mất thăng bằng từ đây

Nằm yên thôi chớ vùng vằng
Để cha rơ miệng con bằng mật ong
Bẻ luôn cái lưỡi cho cong
Nói năng lấp liếm mới hòng người nghe

Xưa ông nội đến nơi này
Sóng xanh mơ mộng những ngày thanh niên
Sáng chiều bơi lội như điên
Tập cha ôm cõi vô biên một mình
Nước vô mặt mũi lình bình
Cha gần ngộp thở nên kình luôn ông
Bây giờ biển cũ mênh mông
Dẫn con về thở cũng không được rồi
Một ngàn tư tưởng xa xôi
Rừng cao một khoảnh cha ngồi ru con

Khi không tao tạo nên mày
Lọt ra từ cõi không ngày không đêm
Xưa kia trên cái bụng mềm
Tao đâu ngờ đã chất thêm lượng sầu
Đất trời đến thuở rụng râu
Có tao hậm hực ngồi khâu cuộc đời
Thế đó, một bầy con sinh ra đều đặn dưới trăng mờ sương khói rừng xanh, có hai cô gái út Phương Bối, Tiểu Khê, bây giờ đã lớn hết rồi, trừ  Đức Thảo đã mất, còn lại đứa nào cũng tung cánh chim trời, rời núi rừng hoang vắng bay xuống vùng thung lũng bình nguyên, biết sống tự lập và cũng biết mần thơ, nhất là thơ Nguyễn Đức Vân, Nguyễn Đức Yên bàng bạc hơi giống hồn thơ lục bát của phụ thân. Bởi do có nhiều con cái, lúc nhúc thê tử như vậy, làm sao không tránh khỏi phiền não khổ lụy, nên chi Sơn Núi có lúc cũng Nói thật, một sự thật não nùng, túng thiếu của những gia đình nheo nhóc buồn thiu :
Ở ăn với mẹ mày nhiều
Có trưa hộc máu có chiều trào cơm
Có đêm quẩn trí sôi đờm
Sáng ra cuộc sống quá nhờm con ơi !
Ru con cha rống thấu trời
Oan khiên tan ở giữa đời cho mau
Sầu khổ thái quá, hân hoan thái quá, thi sĩ đi từ cực đoan này đến cực đoan khác một cách tự nguyện, tự dấn thân liều lĩnh đương đầu cho đến tận cùng một vấn đề nào đó trong cuộc sống như muốn khám phá để bùng vỡ ra điều chi bất khả tư nghì. Quả thật, không thể nghĩ bàn chi được hết, chỉ còn một cách thể hiện bằng hành động nhập cuộc, ôm trọn tử sinh trong vòng tay say đắm một lần thật chặt, vì biết rằng chẳng có gì hơn là mộng mị ảo giác hoang mê :
Rồi mai huyệt lạnh anh về
Ru nhau gió thổi bốn bề biển xưa
Trăng tà đổ bóng cây thưa
Mộng trần gian đã hái vừa chưa em ?
Chắc có lẽ chỉ có Nguyễn Thị Phượng mới trả lời được câu hỏi này mà thôi. Ơi chao ! Hình ảnh nàng thơ gầy mấy chục năm trời sống với chàng thi sĩ dị thường trên núi cao ấy là một hình ảnh đẹp như huyền thoại, một vẻ đẹp hy hữu hiếm hoi đầy sức chịu đựng kiên trì nhẫn nhục, vô cùng độ lượng bao dung. Tình yêu của con người trên mặt đất quả thật vô lượng vô biên, vừa huyền diệu thiêng liêng mà cũng vừa phù du huyễn mộng :
Sáng mênh mông
Ta đi thơ thẩn trong vườn hồng
Ồ bông ồ mộng ồ không
Sống hiu hắt lặng lẽ riết trên núi đồi heo hút suốt hơn mười lăm năm sau, vào tháng 12 năm 1992 nhà thơ mới làm một cuộc phiêu lưu xuống núi, thăm lại Sài Gòn. Chốn cũ giờ đây quá nhiều đổi khác, bạn bè xưa tan tác tàn xiêu, chẳng biết phương nào trôi nổi. Đôi ba thằng bạn trí thức xưa, bây giờ lưỡng lự phân vân trên con đường tiến thối lưỡng nan, vì bị mắc vướng vào vòng mâu thuẫn xung đột nội tâm, không biết dứt khoát như thế nào, cảm thấy lòng dạ bất an. Thông cảm tình trạng của bạn, Sơn Núi nhẹ nhàng Tâm sự với một đảng viên trí thức muốn ra khỏi đảng :
Anh đi cách mạng bao năm
Từ rừng đến phố dao găm chưa xài
Vẫn chưa dứt điểm sòng bài
Tấm thân ê ẩm khuya dài đau sao
Cứ yêu tha thiết đồng bào
Tuy nhiên hễ thấy máu trào thì ngưng
Những tên dở dở ương ương kiểu ấy, dĩ nhiên là sống nhạt nhẽo, thiếu sinh khí, chỉ biết đeo mặt nạ giả dối. Rồi từng bước đơn hành giữa thành đô náo nhiệt, viếng thăm dăm bảy con đường xưa đây đó và một chiều phiêu hốt theo cơn gió, ngập ngừng dừng lại ghé Thăm bạn là công nhân nghèo dọn nhà :
Xe ba gác đã đến rồi
Mau mau bàn ghế chảo nối chất lên
Vợ chồng được mấy tấm phên
Những đêm hạnh phúc nhà bên khó dòm
Giờ này còn cãi om sòm
Nhựa nhôm cũng món tiền còm mang theo
Đừng quên cái khoản cứt heo
Gởi về quê giúp ruộng nghèo đói phân
Thật là tiêu biểu làm sao, miêu tả đậm nét cả một nếp sống bấp bênh của giới dân nghèo lao động không có hộ khẩu thành phố, phải ở tạm bợ, bôn ba hối hả chạy ngược chạy xuôi tìm sinh kế để kiếm ăn qua ngày lay lất. Đấy là đa số những cảnh đời vất vả gian nan, hết sức cực khổ lao đao đói rách nhọc nhằn. Lặng hồn sờ sững, khi nhà thơ bất ngờ tái ngộ tao phùng một người bạn xưa kia là tu sĩ, đại đức ở chùa, chuyên nghiên cứu kinh điển Nguyên thủy, thế mà không hiểu tại sao, giờ đây lại là cán bộ đảng viên cộng sản, bèn Tâm sự với một đảng viên gốc chùa :
Nay về thành phố tình cờ
Cố nhân gặp lại sững sờ bể dâu
Anh vô chùa được bao lâu
Thì theo cách mạng nhiệm mầu dắt ra
Hai lần bái biệt cửa nhà
Thoát ly mấy kiểu chắc là khác nhau ?
Tay sờ mái tóc trắng phau
Có khi nào ngẫm cái đau dữ dằn
Vợ con thừa thãi cái ăn
Cảm ơn một chút trán nhăn riêng mình
Tâm sự như vậy là cũng dư hiểu nỗi lòng nhau rồi phải không ? Chẳng cần phải luận bàn chi thêm nhiều nữa với bọn cơ hội bỉ ổi này. Tâm tính con người đổi thay đột biến, biết đâu mà lường ? Trước kia là bạn bè thân thiết thâm giao, còn bây chừ thì tư tưởng đối nghịch hoàn toàn khác hẳn, khi bạn bầu lâu ngày gặp lại Trên sân thượng một nhà hàng đặc sản :
Cố nhân này cố nhân ơi !
Sợ gì bội thực cuối đời đấu tranh
Yêu cầu nhậu tiếp đi anh
Mặc tôi ngồi ngó trời xanh ngập ngừng
Ngày xưa từ chối vô bưng
Tôi đi lỡ thẳng cái lưng quen rồi
Thơ văn không kỵ chảo nồi
Cảm ơn gặp gỡ bồi hồi bắt tay
May mà còn có chiều nay
Bánh mì tôi gặm mây bay anh nhìn
Nhìn thấy mây bay trên bầu trời xanh bát ngát là một sự kiện trọng đại xảy ra trong đời, đối với những người xưa nay chỉ biết đắm chìm trong danh lợi. Cái giây phút bất ngờ họ chợt nhìn thấy mây bay là phút giây đáng ghi nhớ như nhìn thấy trái đất đang lăn quay lông lốc dưới gót chân. Những sự kiện đó vốn có sẵn từ muôn thuở rồi, nhưng có mấy ai ý thức được điều kỳ diệu ấy đâu ? Bởi vì họ chỉ bận tâm lo cho cái bản ngã to đùng, lùng bùng trong cố chấp, nên sống nô lệ vào cái ngã chấp thâm căn cố đế đầy tham vọng, tham lam, ôm đồm đủ thứ chuyện lợi danh, thành bại, đắc thất, nhất là khi họ có quyền hành, chức tước, địa vị thì lại càng sinh ra đòi hỏi thỏa mãn bản ngã nhiều hơn nữa. Bọn quan liêu này, thời nào cũng có, cứ bày trò nhậu nhẹt, ăn chơi trác táng, không những ngoài mấy nhà hàng lộng lẫy mà ngay trong các biệt thự tư gia là sinh hoạt của một số cán bộ đảng viên biến chất, vì họ có thừa tiền dư bạc nhưng thiếu một điều quan trọng nhất… Điều đó thì ai cũng biết rồi, chẳng cần phải nói rõ làm chi. Tuy nhiên, bất sá họ có sai trái gì, thi nhân vẫn giữ chút tình bằng hữu đến thăm, giống như thi hào Goethe : “Tất cả những người tôi gặp gỡ là những kẻ mà tội lỗi của họ, chính bản thân tôi đều có thể vi phạm.” Với nhãn quan cảm thông, rộng rãi như thế, thi sĩ đi viếng thăm Gặp gỡ tại nhà một đảng viên ngày chủ nhật :
Sáng nay chủ nhật đông vui
Bạn bè ăn uống tới lui khề khà
Bao cao su vứt đầy nhà
Trẻ con lượm thổi con gà lôi đi
Chưa kịp quét miễn xầm xì
Gia đình cách mạng thôi thì tự nhiên
Con gái đầu khá ngoan hiền
Nguýt xong cha mẹ hốt liền vườn sau
Cháu ơi ! Thông cảm cho mau
Không gì bù lỗ nỗi đau làm người
Khách quan phân tích tiếng cười
Chú tin chắc chắn đười ươi khác rồi
Một bàn rượu ngoại chờ thôi
Rửa tay vô bếp đồ mồi dọn lên
Tin tưởng vào lẽ công bằng lý nhân đạo bao la của trời đất, nhà thơ xúc động làm thơ đồng cảm, chia sẻ cùng với biết bao cảnh đời éo le tội nghiệp của các chị em phụ nữ, những trái tim ứa máu đau đớn vì bị người yêu phũ phàng phụ rẫy, khi tình cờ một sớm mai lang thang phố thị, đi ngang qua nhà thương, bất ngờ Gặp gỡ trước bệnh viện Từ Dũ :
Chị đi khám sản phải không
Anh đâu chẳng thấy dáng trông lạc loài
Bao năm thai trứng nạo hoài
Năm nay đừng nhé thai ngoài tử cung
Họ nghi tàn bạo lạ lùng
Oan khiên tội lắm anh hùng bạn tôi
Gần nửa tháng rong rêu khắp nẻo phường xanh phố đỏ thị thành, một thành phố đầy bụi khói oi nồng thời công nghiệp máy móc khô cứng, chứng kiến biết bao cảnh ngộ vô thường đắng cay thay đổi, bên này khác hẳn bên kia, lòng dạ con người càng bạc nhược ươn hèn, suy đồi thối tha, cạn kiệt biến chất theo kiểu đểu giả, lếu láo quỷ ma nhiều quá, chàng đãng tử ê chề ngao ngán mà Giã từ thành phố Hồ Chí Minh :
Mai tôi về núi em ơi !
Quẩn quanh thành phố ma chơi quỷ đùa
Thời công nghiệp dạo sân chùa
Tên siêu đãng tử cưỡi rùa trong mơ
Ba năm ví bỏ làm thơ
Ba ngàn năm nữa ai rờ tan hoang
Bên này đèn điện sáng choang
Bên kia vách mộ nắng loang tắt rồi
Thôi thế là cũng đủ, một vài bức tranh xã hội sẫm màu sầu khổ, bất an, cơ hội, hưởng thụ, vênh váo, vô cảm, hợm hĩnh dưới cõi phù sinh kia là vậy. Thấy gì chăng hay chỉ thấm ngậm ngùi ? Lui về núi cao nằm ngắm mây trời suốt sớm trưa chiều tối… Rồi cảm hứng những vần thơ phơ phất giữa hồn rung :
Êm êm chiều xuống chập chùng
Gió lên lùa cả mùa đông vào hồn
Sương mù giăng kín bản thôn
Mái khoan thai đếm giọt buồn theo mưa
Cây rừng chuyển giọng sầu đưa
Nhịp vang theo nhịp như xưa lắm rồi
Suối khô đã tiếp lượng trời
Ngày xanh tôi vẫn một đời tịch liêu

Thi ca
Không thể nào đồng nghĩa
Với tiếng kêu la
Rồi chết

Tôi đâu có muốn làm thơ
Ngứa tay xé giấy hồi giờ quẹt chơi
Cõi riêng nghi ngút cả đời
Cũng e nằm hết sau lời lẽ kia
Ai về khuất tịch đá bia
Thấy ra ngàn thuở vài tia nắng mù
Đồng thanh xin đứng gật gù
Chớ hòng kiếm cách bỏ tù hồn tôi
Cái nòi bình giải lôi thôi
Có hay chữ nghĩa đắp bồi tang thương ?
Sương mù từ dưới thung lũng ùn lên bay là đà lã lướt quanh triền đồi non núi lạnh pha phôi. Rồi đến cuối năm 1996 nhà thơ đãng tử lại ngứa ngáy tay chân nên làm một trận ngao du phiêu bồng xuống núi lần nữa, theo cách điệu Ừ, vậy đó :
Đã gần sáu chục tuổi rồi
Làm thơ trắc nết như hồi hai mươi
Núi thần vây bủa đười ươi
Lang thang tôi kiếm con người hôm nay
Gặp em thuở tóc đang bay
Chòi hoang nằm mộng hai tay tuột quần
Thằng bạn Đặng Toản đang sống bồng bềnh bên Mỹ quốc, cháu ruột nhà phê bình Đặng Tiến, là một người thuộc làu làu thơ Nguyễn Đức Sơn, hầu như không sót bài nào, rất thích câu “Lang thang tôi kiếm con người hôm nay.”“Chòi hoang nằm mộng hai tay tuột quần.” Nghe hắn vừa đọc thơ vừa bình giải cả tiếng đồng hồ qua điện thoại cũng vui, cảm thấy hay, hay tuyệt. Ừ “Chòi hoang nằm mộng hai tay tuột quần” là mộng trong cuộc mộng du dương, cũng như không hề uống rượu mà vẫn thấy say sưa túy lúy như thường. Sơn Núi chưa bao giờ nhắp đến một giọt rượu gạo, rượu nếp hay bia bọt nào hết cả nhưng rượu thơ, rượu nhạc, rượu hồng nhan thục nữ thì cứ vẫn lai rai nốc cạn chén lai láng bồi hồi :
Tôi không hề nhậu em à
Thế nhưng trời đất đậm đà luôn say
Thiên đường nếu chẳng chốn này
Cắn răng chịu vậy miễn bày xa xăm
Cho nâng nhé một chút cằm
Có đâu nhất thiết phải nằm trên mông
Giọng thơ như cung đàn trầm dịu yêu thương lướt nhẹ hòa âm thấm thía tận tâm can thể phách một nỗi đau đời xót xa cho biết bao thân phận gái bia ôm, những nàng Kiều hiện đại ở khắp dọc đường khách đãng tử giang hồ một hôm nọ tình cờ ghé thăm qua :
Mai tôi về núi thật mà
Dẫu cho thực tế khác xa cái cùm
Bia ôm đã mọc tùm lum
Màn đêm thô tục bao trùm thanh niên
Thế nhưng giọng lưỡi thánh  hiền
Dưới trên nhất trí đang ghiền phát huy
Tiền đồ quá mức báo nguy
Đau thay quần mục cài khuy cách nào ?
Em ơi ! Nước mắt cấm trào
Ngủ xong nhớ ngáp ào ào giùm nghe
Nghe ra niềm chi não nề tê tái, nghèn nghẹn chẳng thể thốt nên lời :
Mai tôi về núi thật rồi
Chúc em ở lại đứng ngồi tự nhiên
Xem tôi chánh hẩu thằng điên
Tim pha chút máu thánh hiền cho vui
Rung đùi tập thể trở mùi
Núi cao tuy vậy ngậm ngùi vài năm
Trầm ca lặng lẽ âm thầm. Còn ai nhắn gởi lời tâm sự này ? Dời gót chân quày về đỉnh núi. Cười với ngàn sương khói mênh mông. Hỡi em mây trắng vờn trong nắng. Lặng nhìn mình như có như không. Tận trong lòng sâu thẳm uyên tư, thi nhân chợt vẳng nghe máu chảy lạnh rần qua muôn kiếp hư linh :
Ngó mông ra núi Đại Bình
Hoàng hôn vừa xóa muôn hình phù vân
Cái danh ngàn thuở cóc cần
Sao nghe máu chảy lạnh rần trong ta
Đại Bình hay Đại Lão cũng là một ngọn núi ở cao nguyên Bảo Lộc. Bây giờ trên đồi thông bát ngát Phương Bối đã xây thêm một ngôi nhà có vài ba phòng tiện nghi tương đối, do sư bà Huệ Giác, viện chủ Quan Âm tu viện ở Biên Hòa và sư cô Hương Nhũ du học từ Ấn Độ về, tận tình giúp đỡ tài trợ cho gia đình thi sĩ. Sơn Núi ít khi nghỉ ngơi đây mà ở biệt lập một am vắng trên đồi cao nhất Phương Bối, nằm ẩn hiện giữa những bụi trúc xanh vàng lãng đãng sương mù bàng bạc mênh mang. Sáng trưa chiều tối lội lên vòng xuống quanh mấy triền đồi thông trúc biếc song thoại thầm thì với cây cỏ lá hoa :
Sướng quá đời ta tuổi sắp già
Bao nhiêu học thuyết bước đều qua
Nay về dắt bóng chơi am vắng
Ấu trĩ vườn trăng một tiếng gà
Một tiếng gà gáy trưa đâu đó dưới sơn thôn vọng lên văng vẳng rồi tan loãng bay là đà theo sương khói chập chùng lan tỏa khắp mông lung :
Nhờ hồng phúc
Mà nay
Mặc dù đã có gia đình bậy bạ rồi
Tôi vẫn đang ngủ trên am mây
Với những bậc thầy
Muôn thuở trước
Còn nghìn năm sau, nếu có ai chợt nhớ đến nhà thơ Nguyễn Đức Sơn thì cứ việc thoải mái như lời nhắn gởi khơi vơi :
Đời sau người có thương ta
Từ lâu xuống lỗ làm ma mất rồi
Đường xa xin chớ bồi hồi
Mả hoang nhảy đại lên ngồi đi cha
Lạ lùng thay ! Hình ảnh cái chết của nhà thơ hiện ra quả nhiên là tuyệt đẹp, đẹp như tiếng vọng trong ngần phất phơ giữa vô tận không gian và thời gian :
Ngàn sau
Phơ phất gò bông lau
Mầu nhiệm không những là cuộc sống đang là mà còn hiện hữu ở bên kia sự chết nữa, qua thần lực sức mạnh của nghệ thuật thi ca, nhà thơ đã vượt lên trên cái chết ngay trong sự sống từng giây phút thanh tân. Rất nhiều lần rồi, tôi về thăm Sơn Núi, ngồi đối mặt với một tâm hồn đã va chạm càn khôn tịch mịch, tôi cảm nhận ra được nhiều điều thú vị. Thú vị như nửa khuya thức dậy, thấy thi sĩ ngồi một mình bên bếp lửa pha cà phê độc ẩm rồi. Tôi chợt nhớ mấy vần thơ Tuệ Sỹ :
Ai biết mình tóc trắng
Vì yêu ngọn nến tàn
Rừng khuya bên bếp lửa
Ngồi đợi gió sang canh
Hình ảnh một người ngồi lẻ loi bên bếp lửa giữa rừng khuya đó thật đẹp, một vẻ đẹp bi tráng khi Tuệ Sỹ đi ẩn dật ở núi rừng Vạn Giã vào năm 1977 và đẹp cô liêu như Nietzsche, từ chức giáo sư đại học Basel, rút lui về vùng cao nguyên Naumburg năm 1879, sống những ngày cô đơn rờn lạnh nhất, chỉ biết lang thang với bóng mình. Hình ảnh Sơn Núi trên đồi Phương Bối cũng vậy thôi. Đồi cao lũng thấp sương rờn. Thơ về cưới hỏi cô đơn chốn này. Quạnh chiều phiêu lãng ngàn mây. Thấy vàng  hoa mộng trổ đầy hoang sơ. Thở sâu và trầm cùng cây cỏ, vui nhẹ và bền cùng rẫy nương, thường đội cái mũ bê rê bạc màu trông giống Henry Miller chi lạ… Hòa nhịp bước sương trôi lên triền đồi cao xanh thoáng ngát, lòng phong quang đưa mắt nhìn xuống chờn vờn thung lũng dưới xa kia và bao giờ tôi cũng ngâm nga lai rai vài ba bài thơ của thi sĩ cho gió nắng bồn chồn rộn rã hát xôn xao :
Muôn năm thông vẫn dạt dào
Chiều nay trở lại lũng sầu xa xôi
Tóc em xuống nhẹ vai đời
Ghé thăm hạnh phúc rồi tôi độc hành

Ngày mai núi cũ tôi về
Dĩ nhiên hạnh phúc tràn trề em ơi !
Thơ bay tự cổ ngút trời
Quanh năm bảo đảm tuyệt vời nước mây
Cớ sao đãng tử bậc thầy
Hỏi ra từ đá tới cây lắc đầu

Sáng ra hôn nụ hoa hồng
Giữa trưa dừng cuốc ta bồng mây trôi
Đít em là một cái nồi
Gốc cây bê tới đặt ngồi quá hay
Em ăn mặn anh ăn chay
Thằng ngu gặng hỏi hôm nay ăn gì ?

Em ơi ! Tịch mịch trời chiều
Thò tay hẹn ước đôi điều cho vui
Kẻo mai cảnh cũ sần sùi
Bâng khuâng thiên địa ngậm ngùi hồn anh

Một đêm sao ở trên trời
Thi nhau rụng xuống bên đổi cây hoang
Lao xao như nắng thiên đàng
Phấn thông hiu hắt bay vàng hồn tôi
Các em rồi sẽ xa xôi
Mình tôi ở lại bóng ngồi thiên thu
Thiên thu hiện hữu ngay trong cái bây giờ, ngay trong mỗi sát na đây thôi, rất thanh thản nhàn hạ tôi dạo quanh đồi núi thong dong, lòng rỗng rang như mây trắng, nhắc lại hồi xưa, thời Sơn Núi còn lưu trú chùa Trúc Lâm ở Gò Vấp, Sài Gòn, tôi thường ghé chơi, có lần cùng thi sĩ đạp xe rong rêu lên Lái Thiêu, Bình Dương chơi suốt mấy ngày đêm rồi mới về. Thời đó là năm 1973 tôi đang theo học Đại học Vạn Hạnh, mới tập tành làm thơ và học được ở thi nhân rất nhiều về kinh nghiệm sáng tác văn chương.
Phương Bối đồi thông lộng gió mây trời thiên thanh vĩnh thúy, thỉnh thoảng rộn gót chân du sĩ đi về, những chàng lãng tử tứ xứ mười phương ngưỡng mộ Sơn Núi, những bạn bè vong niên thâm thiết đều tìm viếng thăm một bận thân tình như họa sĩ Đinh Cường từ Mỹ về, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, nữ sĩ Thu Nguyệt từ Sài Gòn lên, nhà thơ Nguyễn Dương Quang từ Đà Lạt xuống, nhà văn Bửu Ý từ Huế vào và mới vài tháng trước, thiền sư thi sĩ Tuệ Sỹ trên đường hành cước vân du cũng ghé lại thư thả chơi dăm ba ngày. Gần đây nhất vào tháng 7 năm 2013 tôi lại bầu rượu túi thơ lên Phương Bối, ngồi cùng Sơn Núi khề khà đủ thứ chuyện văn nghệ trong một quán cà phê ở phố núi Bảo Lộc một chiều mưa. Bữa đó tôi có làm bài thơ này tặng thi sĩ  nhưng quên đưa, trước khi từ giã :
Gió bụi mù du sĩ ca
Qua bờ khốc liệt khiến nhà thơ câm
Tịnh khẩu rồi lặng âm thầm
Trầm đêm nguyệt động hỡi thâm xứ nào
Tưởng chừng như giấc chiêm bao
Bao nhiêu bọt nước vỡ trào bấy nhiêu
Vọng sầu thiên cổ tiêu điều
Ngút đồi hoang dại khói hiu hắt vờn
Hoa cô độc trổ cô đơn
Rợn màu máu lệ rợn hồn rưng rưng
Lời ru vẳng gió sương rừng
Mộng du trên đỉnh mùa xuân một mình

Tâm Nhiên


* Nietzsche. Tôi là ai ? Phạm Công Thiện dịch. Phạm Hoàng xuất bản, Sài Gòn 1970
** Trúc Thiên. Hiện tượng Krishnamurti. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1967
*** Rainer Maria Rilke. Thư gởi người thi sĩ trẻ tuổi. Hoàng Thu Uyên dịch. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1969
**** Phạm Công Thiện. Triết lý Việt Nam về sự vượt biên. Trần Thi xuất bản. Hoa Kỳ 1995
***** Henry Miller. Thời của những kẻ giết người. Nguyễn Hữu Hiệu dịch. Hồng Hà xuất bản, Sài Gòn 1971
Thơ Nguyễn Đức Sơn ( chữ nghiêng)  trích trong các tập :
Bọt nước. Mặt Đất xuất bản, Sài Gòn 1965
Hoa cô độc. Mặt Đất xuất bản, Sài Gòn 1965
Lời ru. Mặt Đất xuất bản. Sài Gòn 1966
Đêm nguyệt động. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1967
Vọng. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1971
Tịnh Khẩu. An Tiêm xuất bản, Sài Gòn 1973
Những bài thơ rải rác viết sau năm 1975