Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2009

Truyện ngắn- VÔ ĐẠO- Lê Quang Kết

Truyện ngắn
VÔ ĐẠO
Lê Quang Kết
Anh ta tên Quê. Người cùng làng bảo rằng: Ngày ấy nhà Quê nghèo lắm, thuộc hạng cố nông cùng đinh, không tấc đất cắm dùi. Có điều nhà ấy biết cưu mang đùm bọc lẫn nhau. Quê có hai chị gái chịu thương chịu khó. Cha mẹ công việc đồng áng quanh năm đầu tắt mặt tối chẳng bao giờ bước ra khỏi cổng làng. Không nói ra nhưng ai cũng nhủ lòng cố lo cho nó học hành thành đạt. Bà mẹ nào chẳng thế- con đỗ đạt làm ông này ông kia mai này mình sung sướng tuổi già. Người cha lại có niềm mong ước khác: Cả dòng họ bao đời nay chẳng ai bảng vàng bia đá nay con trai mình tú tài- cử nhân là niềm tự hào cho gia đình dòng tộc.Và thế là Quê được cưng chìu chẳng làm chi chỉ lo đèn sách. Nhà nghèo rớt mùng tơi nhưng cậu út sướng như tiên. Hình như Quê chẳng phải bận tâm tới việc lấy đâu ra cho mình ăn học? Mẹ cha rồi hai chị cực nhọc ra sao?
So với các cô cậu cùng trang lứa, Quê là đứa tối dạ, học hành loàng xoàng nhưng cuối cùng cũng tốt nghiệp phổ thông trung học vào cái thời buổi mà tỉ lệ tốt nghiệp tới 99,9%. Cả nhà chăm chút và kỳ vọng vào cậu trai. Cha bảo:
- Hay là con thi vào Đại học nông nghiệp rồi ra kỹ sư làm trên huyện gần nhà được cả đôi bề.
- Ừ, nhà mình bao đời sống với cây lúa củ khoai. Bà mẹ đồng tình.
Quê vốn thụ động, nhút nhác. Kể cũng lạ. Mấy năm trọ học trên thị trấn thằng Khoa, thằng Tiến học đòi thị tứ bao thứ- nào là quần áo bảnh bao- nào là tóc tai chải chuốt- cả chuyện yêu đương bồ bịch…Vậy mà Quê vẫn lặng lẽ đi về- cậu ta vẫn giữ nét chân chất của chàng trai quê không bị lối sống phố thị xô bồ lôi cuốn. Cả nhà mừng thầm. Con tôi ngoan lắm. Em tôi hiền khô à, tìm đâu ra chàng trai thời nay giỏi giang đến thế. Bà con chòm xóm những kẻ ngồi lê đôi mách vốn chỉ xầm xì “câu chuyện làm quà” cũng phải khen thầm: Nhà ấy phúc đức có cậu con trai hiền lành tốt bụng chuyên tâm học hành, vợ chồng ông Hồi sau này đỡ khổ thoát cảnh chân lấm tay bùn…
Ước mơ thôi thúc người ta vươn lên trong cuộc sống, ước mơ cũng giúp người ta quên đi những vất vả mệt nhọc lo toan hàng ngày. Hình như mơ ước cuộc sống đổi đời làm con người giàu đức hy sinh hơn!? Ông Hồi chẳng kể ngày đêm lao vào công việc để có đủ tiền cho Quê lên thành phố ôn luyện. Hai chị gái thương em nhận thêm việc gia công sản phẩm ở một xưởng đan lát để có thêm thu nhập trang trải gia đình, họ chẳng nghĩ chi chuyện lập gia đình dù cũng có người muốn làm quen tiến tới. Bà Hồi thương con trai hơn - sợ con thiếu thốn, bà nhờ bà con liên hệ lên thị trấn làm người giúp việc cho đôi vợ chồng trẻ khá giả, mỗi tháng được trả bảy trăm ngàn để định kỳ có tiền gởi cho Quê.
Cả nhà lo cho mình- phải cố lên không thể phụ lòng mọi người, phải thi đỗ đại học vì lòng tự trọng và niềm kỳ vọng của gia đình. Bao bạn bè ở quê đều phải nghỉ bỏ học do không lo nổi, mình là đứa sướng nhất làng có ai bằng. Cố lên. Bao nhọc nhằn, chật vật bài vở và phải tới hai kỳ thi, cuối cùng Quê cũng đỗ vào đại học nông nghiệp - khoa dâu tằm dù học lực chỉ ở dạng trung bình, nghe đâu có điểm ưu tiên do ông Hồi là du kích thương binh.
Bốn năm đại học, giá cả ngày càng đắt đỏ, nhu cầu cuộc sống phố thị ngày càng đội lên nhưng riêng Quê đề huề lưng túi chẳng thua em kém bạn về chuyện tiền nong. Còn học hành thì thời buổi ấy ai mà chẳng ra trường, trừ ra một số vi phạm đạo đức, hạnh kiểm còn đều tốt nghiệp. Quê tự hào lắm, cả dòng họ bao đời nay mới có mình vinh quy bái tổ. Ông bà Hồi cũng đã chọn sẵn một thiếu nữ ở làng bên nết na, thùy mỵ- họ quyết định đại đăng khoa và tiểu đăng khoa luôn thể. Nghiễm nhiên kỹ sư Nghiêm Thực Quê là cán bộ phòng nông nghiệp huyện nhà, hàng ngày ung dung tự tại sáng đi chiều về, quả là “chiếu lót giữa đàng vàng treo cửa ngõ"
***
Thế nhưng sự đời chẳng bình yên bằng phẳng như ta tưởng. Người làng đồn đại hóa ra là chuyện có thật: Quê chuyển công tác và nhậm chức Trưởng phòng kinh doanh -vật tư của một Tổng công ty TT tiếng tăm cả nước ai cũng biết. Ông bà Hồi có chút lo nhưng mừng ra mặt. Nhân đầy năm đứa cháu đích tôn và tiễn đưa Quê, họ đã mổ heo làm tiệc ăn mừng. Tạm thời chỉ mình Quê đi nhận nhiệm vụ mới còn vợ con cứ ở nhà với ông bà. Lo gì mai này ổn định rồi đưa vợ con vào cũng chẳng muộn.
Ngày ra đi Quê cũng bồn chồn lo nghĩ. Mình có biết kinh doanh -vật tư chi mô, làm trưởng phòng chứ đâu chuyện đùa. Mấy tháng đầu lạ nước lạ cái, trông Quê ngờ nghệch, nhiều thiết bị hiện đại từ nước ngoài nhập về anh ta hồn nhiên nhìn ngắm rồi đưa tay sờ mó trông thích thú lắm. Dần dà công việc ổn định, Tổng công ty ngày mỗi bề thế có vẻ ăn nên làm ra, năm nào cũng mở hội nghị cỡ khu vực và quốc tế, đại biểu khắp nơi dồn dập đổ về tham quan học tập. Quê vốn chất phác, cẩn trọng nên chẳng có gì sơ suất, được đánh giá là đơn vị tiên tiến xuất sắc, lương thưởng khấm khá nên mọi người yên tâm với công việc.
Chuyện bắt đầu từ khi có cô gái trẻ về phòng kinh doanh -vật tư. Người thành phố có khác, mặt hoa da phấn được cả dáng dấp lẫn cách ăn mặc đúng điệu cộng với cái tên cũng đầy ấn tượng- Mỹ Ngọc. Các chàng trai trẻ tha hồ nhìn ngắm, tán tỉnh, sẵn sàng hỗ trợ mỗi khi nàng cần sự nghĩa hiệp từ chuyện nhỏ đến việc lớn như mang vác bưng bê. Bao chàng say mê Mỹ Ngọc như điếu đổ nhưng nàng chẳng bận lòng chỉ thích anh trưởng phòng đã có vợ một con. Cô ta chủ động mời Quê đi uống cà phê, tỉ tê này nọ, mùa lạnh mua cho anh chiếc áo blouson, mùa hè sắm cho chàng chiếc quần bò áo pul cá sấu. Mưa lâu thấm đất. Những bộ đồ cũ xưa trên người Quê lâu nay được thay thế bởi bao thứ sang trọng lịch lãm. Quả là Quê khác đi nhiều, áo quần được chăm chút lượt là, tóc tai được xịt keo cẩn thận, giầy mũi nhọn đế cao láng bóng, và còn thêm mùi nước hoa thơm lựng mỗi khi đi đâu. Thị xã này vốn nhỏ, đường không rộng chân bước chật, ra khỏi nhà là gặp mặt nhau, vậy mà cô cậu cứ cặp kè đây đó, làm sao khỏi chuyện bàn tán xôn xao. Chà, coi bộ họ dính nhau rồi thì phải, ông trưởng phòng nhẹ dạ bị cô gái trẻ mồi chài, chẳng hiểu có âm mưu chi đây, rồi đây mới rầy rà phức tạp…
Chà, anh Quê sang ghê! Chiều chiều “hai người”lại còn tập tễnh tập dợt tennis nữa mới sành điệu chứ. Có người nói: Trưởng giả học làm sang. Người thì bảo: Đổi lốt, biến tướng, tút toàn diện. Anh em phòng kinh doanh- vật tư xầm xì: Tiền đâu mà lắm thế!? Chỉ có điều Quê đang cố quên ngày tháng cũ, cái ngày xưa nghèo khổ được mọi người chia sẻ cưu mang. Nghe đâu Quê có gửi tiền về phụ vợ con nhưng thưa thớt những chuyến về quê. Có rỗi đâu, công việc kinh doanh- vật tư đã bù đầu rồi còn chuyện những ngày công tác kết hợp với du hí tận Sài Gòn hoa lệ, lại còn lo nghĩ tiền nong cho việc tậu ngôi biệt thự trong đợt bán đấu giá kỳ tới.
Quê bây giờ đúng là giàu thật, nhà to rồi xe bảy chỗ đời mới, tiện nghi gia đình toàn thứ đắt tiền. Mỗi bước lên xe xuống ngựa đường bệ như là quan lớn thủa xưa. Hình như là thế: Người quý tộc phải nghĩ khác người nhà quê- một chân lý hiển nhiên, tất yếu. Mình bây giờ thế này mà lại có bà vợ quê mùa đến thế à. Hai bà chị gái thì thô kệch, lem luốc, một chữ cắn đôi không biết. Cha mẹ thì dù sao cũng phải trách nhiệm nhưng chỉ chu cấp cho ít tiền là được, đưa họ vào đây chỉ tổ rách việc, có khi còn ảnh hưởng chuyện làm ăn…
***
Tổng công ty TT được cấp trên quan tâm cho vay vốn nước ngoài để đầu tư phát triển. Hợp đồng liên doanh và máy móc trang thiết bị nhập về số lượng ngày càng nhiều, Quê được đi nước ngoài liên tục để quan hệ, giao dịch, thương lượng. Công việc điều phối ở phòng bây giờ thuộc quyền Mỹ Ngọc- trợ lý cho Quê. Cô ta năng động, biến hóa tài tình, mọi việc như cỗ máy chạy êm ru. Ông trưởng phòng và cô trợ lý khắng khít, thuận chiều. Họ sống như vợ chồng nhưng chẳng có chứng cớ gì, mà phải riêng gì anh Quê đâu, ở đây cũng có khối anh có vợ con ngoài quê nhưng vẫn cặp bồ và sống ung dung đường hoàng công khai với cô bồ nhí có sao đâu.
Mỹ Ngọc không muốn mình chỉ là vợ hờ, cô ta muốn là vợ chính thức của Quê. Chị ta suy tính nhiều phương án buộc anh trưởng phòng về quê ly dị nhưng chưa có cơ hội thuận tiện. Lần ấy Quê có chuyến xuất ngoại Hàn Quốc, mới đi mấy hôm thì hay tin cha Quê ốm nặng. Ông Hồi xưa nay lam lũ giờ ốm đau chắc khó qua. Chuyến đi dài ngày và một thương vụ làm ăn béo bở kiếm được khá bộn nên đành phải tội bất hiếu, bởi khi Quê về thì cha đã ra người thiên cổ. Ngày đưa tang ông Hồi bà con láng giềng bùi ngùi: Có thằng con trai trưởng quyền cao chức trọng vậy mà cha chết chẳng có thuớc khăn, than ôi, nghe nói nó giờ là đại gia giàu có nứt đố đổ vách kia mà…Lúc đầu về quê chịu tang Quê tỏ ra ăn năn nhưng sau đó trở lại với cuộc sống xô bồ với giới thượng lưu nơi phố núi anh ta quên nhanh, đặt biệt Mỹ Ngọc luôn bên cạnh anh an ủi, vỗ về. Phía trước Quê là một tương lai rực rỡ, không thể bận bịu với chuyện đất lề quê thói, không thể nào trở về với người vợ quê mùa cưới từ buổi túng khó. Hình như người xưa có câu: giàu đổi bạn sang đổi vợ, còn với Quê giờ này anh đang muốn đoạn tuyệt hẳn với mọi thứ của ngày xưa.
Bàn tính theo kế hoạch của đạo diễn Mỹ Ngọc, Quê về quê sắp xếp chuyện nhà và tiến hành ly dị. Mọi thứ đều được trao đổi bằng tiền, cho cô vợ cũ căn nhà ở quê và một số tiền lớn để làm vốn nuôi con, còn ở Toà án huyện- chánh án vốn là bạn học cũ của Quê nên cũng thuận tiện, mấy chầu nhậu và bỏ phong bì là có ngay quyết định ly hôn. Chuyện nhà cũng gặp may, hai bà chị vì thương em nên lận đận không chồng giờ cũng gặp cơ duyên- nhân huyện đang có dịch vụ tuyển người sang Đài Loan làm người giúp việc, Quê chạy luôn cả hai xuất, không tốn kém là bao vì là chỗ quen biết. Vậy chỉ còn mỗi việc đưa bà mẹ vào phố núi là xong- nhất cử lưỡng tiện. Từ nay chàng trưởng phòng và nàng trợ lý tha hồ tung tăng bay nhảy, chẳng phải kiêng dè e ngại, họ sẽ ngẩng cao đầu bước vào thế giới quyền quý cao sang.
Điều Quê và Mỹ Ngọc lo nhất là bà mẹ quê. Mình đài các thế này mà có bà mẹ quê mùa thế à, làm sao dám giới thiệu với đám bạn bè trí thức quý tộc được. Mẹ nhà quê chân lấm tay bùn- hàm răng nhuộm đen do phong tục thuở trước giờ thành cổ lỗ sĩ, tay chân mẹ gầy guộc do bao năm cực nhọc đi cấy ruộng xa, mặt mày mẹ nhăn nheo do ngày đó đi ở đợ ăn uống qua loa để dành tiền cho con ăn học, có được đến trường học hành sách vở chi đâu làm sao mà mẹ nói lời hoa mỹ như người thành phố được. Mẹ gặp nói chuyện với ai với cái giọng nhà quê ấy chắc mình chết mất, bể mặt chẳng chơi- cả hai thầm thì to nhỏ. Thôi thì để mẹ ở nhà sau, cái phòng nhỏ kín đáo hồi làm nhà kho đấy mà, cũng là xây cấp bốn hẳn hoi chứ đâu phải tranh tre nứa lá tồi tàn như ở quê, bà chẳng đi đâu chỉ cơm nước hai bữa là ổn. Nhưng sự đời dễ đâu, giấu một ngày, một tháng, một năm nhưng làm sao có thể giấu cả đời. Nhà trưởng phòng đại tiệc - tổ chức chiêu đãi trọng thể nhân chuyến đi nước ngoài thành công, khách mời không nhiều nhưng là những ông bà tai to mặt lớn sang trọng đẳng cấp. Tiệc sắp tàn nhưng còn một số thân hữu chưa chịu về. Một ông đi vệ sinh từ nhà dưới lên cất giọng:
- Chàng nàng ơi, moa (moi -tiếng Pháp nghĩa là tao) thấy một bà ở sau nhà kho cũ cứ ra vô nhìn ngắm rất đáng nghi ngờ, phải cẩn trọng với loại người đó, người nhà quê lên tỉnh tinh ranh ma mảnh phải biết.
- Không sao đâu, tụi moa đưa bả ngoài quê vào giúp việc vặt trong nhà đấy mà.
Nhưng Quê đâu biết có một người bạn đang ngồi lại trong bàn tiệc đã gặp bà Hồi trong một lần đến chơi mà Quê và Mỹ Ngọc vắng nhà. Anh ta hỏi thăm và biết chắc bà Hồi chính là mẹ Quê. Tế nhị anh lặng yên không nói nhưng lòng chùng xuống nước mắt rưng rưng: Đúng là đứa vô đạo, mẹ đứt ruột đẻ mình ra mà nó dám bảo là người giúp việc…Anh lẩm nhẩm: vô đạo…vô đạo…tụi nó gieo nhân ác rồi sớm muộn trước sau cũng gặt quả báo thôi…
-------------------------------------------------------------------------------------
Lê Quang Kết
Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Bảo Lộc
ĐT: 063 3717 123 – 0907 615 510
Email: lequang54@gmail.com

Chủ Nhật, 11 tháng 10, 2009

DẤU ẤN THIỀN TÔNG...Lê Quang Kết

Tác phẩm dự thi
Bút ký
DẤU ẤN THIỀN TÔNG TRÊN ĐẤT CỐ CUNG
Lê Quang Kết
Chuyến hành hương đưa tôi về miền tâm thức- đất cố cung thuở vua Đinh - Lê dựng kinh đô Đại Cồ Việt. Địa linh Hoa Lư - nơi những bài cổ thi tuyệt cú đầu tiên của thi ca xuất hiện. Đất này còn là nơi trở về của các vua Lý- Trần khi đã có Thăng Long là kinh đô hành xử. Sau những ngày mải mê công việc triều chính, phê duyệt các tấu chương bàn kế giữ nước - vua tôi lại trở về mái nhà xưa để được tắm nhàn đôi bữa. Phải chăng nơi này là khởi nguyên cho thơ thiền?- tập đại thành văn chương của dân tộc- là thông điệp gởi đi cho các thế hệ người dân Việt; không cũ đi theo dấu ấn thời gian -lúc nào ở đâu người đọc cũng tìm thấy ở đó những điều vi diệu, xác tín và minh triết.
Người hướng dẫn đưa tôi đi trên mười tuyến thành xưa, chị thuyết minh về dấu tích cố cung. Thành chính gồm ba mặt núi đá vôi và một dãy tường đất chếch Bắc. Các bức tường thời ấy chỉ sử dụng thứ vật liệu duy nhất là đất sét đá vôi mà đã ngàn năm vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt. Người Hoa Lư coi nơi này là chốn thâm nghiêm. Mỗi khi có dịp ngang qua, họ nhắc nhau cúi đầu nhẹ bước. Bước chân trên đất thiêng, đứa con từ phương Nam lần đầu trở về quê cha nơi cố quận, lòng tôi miên man chuyện đạo pháp- dân tộc thời ấy. Những năm cuối thế kỷ X, giặc Tống lăm le phía Bắc, Chiêm Thành gây sự phía Nam, triều đình chưa yên, đích thân vua Lê Đại Hành đã hỏi Thiền sư Pháp Thuận - “Quốc tộ” ( Vận nước) và đã được minh triết: Quốc tộ như đằng lạc/ Nam thiên lý thái bình/ Vô vi cư điện các/ Xứ xứ tức đao binh. - (Vận nước như mây cuốn/ Trời Nam mở thái bình/ Vô vi trên điện các/ Xứ xứ hết đao binh ). Một câu hỏi lớn đặt ra: Yếu tố gì làm cho vận nước dài lâu? Một cây làm chẳng nên non nhưng nếu biết chụm lại như mây cuốn thì sẽ là sức mạnh dời non lấp biển. Bài thơ là bản tuyên ngôn đoàn kết, là lời ước vọng chấm dứt nạn đao binh, là vua dân trên dưới một dạ một lòng - lời thơ bình dị nhưng súc tích có sức mạnh như sấm chẻ…Nói như Thiền sư Lê mạnh Thát – “Vận nước” kết hợp với Bài thơ thần của Lý Thường Kiệt là hệ thống tư tưởng chính trị hoàn chỉnh của Đại Cồ Việt thời bấy giờ.
Thế kỷ X- một thế kỷ đầy những biến động lịch sử dữ dội của đất nước, Thiền sư Khuông Việt- Ngô Chân Lưu nổi lên là một nhà trí thức lớn, nhập thế, tinh thông cả Nho, Phật, Lão- một nhà văn hóa tài năng đã phục vụ có hiệu quả công cuộc bảo vệ nền độc lập non trẻ ở hai triều đại chính thống đầu tiên của lịch sử dân tộc là triều Đinh và Tiền Lê trên đất Hoa Lư. Bài kệ trước khi Người viên tịch “ Nguyên hỏa” ( Gốc lửa): Mộc trung nguyên hữu hỏa/ Nguyên hỏa phục hoàn sinh/ Nhược vị mộc vô hỏa/ Toàn toại hà do manh? - ( Trong cây vốn có lửa/ Sẵn lửa lửa mới sinh/ Nếu cây không có lửa/ Khi cọ xát sao thành). Mộc, hỏa là hai trong năm theo thuyết ngũ hành của triết lý phương Đông. Hiện hữu hay không hiện hữu? Tồn tại hay không tồn tại? Sống hay không sống? Trong hiện hữu có thực tại- trong cây có lửa. Sóng bắt đầu từ đâu? Có nước và gió mới làm nên sóng. Bậc chân tu là người tự chuyển hóa từ dữ nên lành, từ xấu nên tốt, từ phàm nên thánh. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó. Phải nhập thế, đạo Phật phải đi vào cuộc đời -phải chuyển đổi cuộc đời. Sở ngộ của Thiền tông là chỗ đó- không lánh đời, không giải thoát cho riêng mình. Phật giáo thuở ấy- cách đây hơn ngàn năm đã có cách hành xử nhập thế tích cực mà Thiền sư Khuông Việt là người soi sáng, mở đường.
Sử sách chép rằng: Sau khi dẹp loạn sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi chưa kịp xây dựng kinh đô thì giặc Tống tràn sang lấn chiếm. Đến ngày Thập đạo tướng quân phá tan quân Tống, vua đã cho xây kinh đô to đẹp mà truyền thuyết còn ghi cả “cột vàng” lẫn “ngói bạc”. Hoàng thành xưa giờ đã hoang phế thế mà di vật đế chế qua năm tháng vẫn tồn lưu. Tận mắt tôi được thấy và hiểu thêm chiếc mũ “Bình thiên”(ngang trời) và màu “Long bào”(màu vàng thiên tử)- hai cổ vật biểu trưng cho tinh thần độc lập tự chủ và uy nghi vương đế triều Đinh mà trước đó- một ngàn năm nô lệ, phong kiến phương Bắc chỉ muốn coi đất này là quận huyện và gọi Giao Chỉ, Cửu Chân…Kinh đô Hoa Lư xưa trải dài tới Tam Cốc, Bích Động; dấu tích còn lưu lại đến hôm nay là hai khu đền thờ vua Đinh, vua Lê trên nền thành cũ. Giữa không gian bốn bề thành lũy, trước sân rồng chầu nghê phục, tâm thức người hành hương như được trở vế với nước non nguồn cội. Câu chuyện Thái hậu Dương Vân Nga “nợ nước nợ tình”- vì sự nghiệp lớn giữ nước đã bỏ ngoài tai mọi lời dị nghị, dèm pha, đàm tiếu. Người đàn bà lạ lùng trong lịch sử phong kiến “Hoàng hậu của hai vua”- vậy mà con cháu muôn đời vẫn một mực ngưỡng vọng yêu thương và tôn kính.
Điều gì đã làm nên chuyện lạ lùng ấy? Bức tượng thờ Thái hậu Dương Vân Nga mà tôi được chiêm ngưỡng - nét độc đáo của tượng là chiều sâu nội tâm thay đổi theo ba tư thế biệt lập, thế nhưng nét ước lệ đặc trưng chủ đạo vẫn là hình tượng một vị bồ tát mang đậm chất thiền nhà Phật với vẻ đoan trang, phúc hậu, từ bi - tượng Thái hậu như bài thơ thiền tuyệt vời vượt lên trên sự đố kỵ hẹp hòi nhỏ nhen- tất cả vì nghĩa lớn… Nhân dân vô danh kính yêu và bất tử đã có tiếng nói riêng của mình khi tụng ca hay phán xét các nhân vật lịch sử- yêu ghét phân minh. Các triều đại Đinh- Lê- Lý- Trần, Phật giáo là quốc giáo và bậc mẫu nghi thiên hạ như Dương Vân Nga đương nhiên là con Phật thấm nhuần thiền học của các bậc cao tăng. Kiến giải như thế chúng ta dễ đồng tình đồng thuận với cách hành xử của Dương hoàng hậu khi trao binh quyền và trao cả trái tim cho Tướng quân Lê Hoàn. Nếu không như thế thì làm sao chúng ta có thể chiến thắng giặc Tống chỉ trong 20 đêm ngày?
Cố cung Hoa Lư nối với dãy núi đá vôi Trường Yên trập trùng kéo dài tới tận Tam Điệp hảo sơn. Một mảng đồng bằng bao bọc bởi núi non sông suối hiểm trở, vách đá cheo leo. Từ đây thủy bộ ngược xuôi với Am Thái Vi hay đường Thiên Lý ra vào Thăng Long, Thanh Hóa…Thế đất ấy phong thủy âm dương hội đủ, thuận thiên, yên lòng người, bảo toàn bờ cõi, quốc thái dân an. Vua Đinh - Lê đã chọn Hoa Lư làm kinh đô kháng Tống và sau này vua Trần Thái Tông đã cho xây dựng hành cung Vũ Lâm làm cứ địa cho cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần hai. Và lịch sử đã xác tín đó là những lựa chọn minh triết.
Một bậc kỳ tài xuất hiện lúc triều chính nhà Tiền Lê rối ren - đó là Lý Công Uẩn, xuất thân từ nhà chùa Ngài đã trở thành đấng minh quân làm rạng rỡ dòng tộc và viết ra những trang sử oanh liệt trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt. Nhiều truyền thuyết, giai thoại về Người - có những giải mã chưa đồng nhất nhưng tất cả đều đồng thuận: Đó là người con của một dòng họ lớn, có nhiều người tài giỏi trên đất Cổ Tháp (Bắc Ninh) cộng với năng khiếu thông minh bẩm sinh đã được nhập thân văn hóa ở một vùng đất văn minh văn hiến; là con đẻ- con nuôi- con tinh thần của những vị cao tăng xuất sắc. Tất cả làm nên một vị Hoàng đế - một thiền sư - một vị hộ pháp cổ lai hy. Sử gia Lê văn Hưu là bậc túc Nho không mặn mà mấy với nhà Phật đã phải thốt lên: “Có người hỏi: Lê Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Thưa rằng: Kể về mặt trừ gian bên trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước ta, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn. Nhưng về mặt tỏ rõ ân uy, lòng người suy tôn, hưởng nước lâu dài, để phúc cho con cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lý Thái Tổ lo tính lâu dài hơn. Thế thì Lý Thái Tổ hơn ư? Đáp: Hơn thì không biết, chỉ thấy đức của họ Lý dày hơn họ Lê, vì thế nói theo họ Lý”.
Vị Thiền sư đồng hành với vua Lý Thái Tổ là Quốc sư Vạn Hạnh- Người là thầy dạy học, dạy đạo và phò tá nhà vua. Thiền sư giỏi về phong thủy, dịch lý. Các vấn đề đại sự của đất nước, nhà vua đều trưng cầu ý kiến của Quốc sư. Và “Thiên đô chiếu”- chúng ta có nhiều lý do để xác tín - chính Thiền sư vạn Hạnh đã thuyết phục vua xuống chiếu dời đô từ Hoa Lư về Đại La ( Thăng Long, Hà Nội ngày nay)- trong ý nguyện bảo vệ nền độc lập tự chủ lâu dài của dân tộc. Bài kệ “Thi đệ tử” của Quốc sư Vạn Hạnh xưa nay có tới hàng vạn trang sách và hàng ngàn tác giả ưu tú tiểu luận và tán dương nhưng vẫn huyền nhật nguyệt- treo mãi trên lầu cao: “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô/ Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô/ Nhậm vận thịnh suy vô bố úy/ Thịnh suy như lộ thảo đầu phô”- ( Thân như ánh chớp có rồi không/ Cây cỏ xanh tươi thu héo tàn/ Nhìn cuộc thịnh suy lòng không hãi/ Thịnh suy đầu cỏ hạt sương tan).
Đoàn hành hương về chùa Bái Đính- tổ khai sáng là thiền sư Minh Không, ngôi chùa giữ nhiều kỷ lục của đất nước và Phật giáo. Ngài được vua ban là quốc sư, pháp sư còn dân gian tôn vinh ngài là Thánh Nguyễn. Những câu chuyện lưu truyền về Thiền sư Minh Không đều có thể gọi đó là những công án thiền - “phi hữu phi không”. Ngài trừ khử con chim cáp kêu to tiếng vang nơi cung điện tráng lệ đất Thăng Long được vua ban vàng, ruộng là để hành hạnh nguyện bố thí của vị Thiền sư- Ngài chữa bệnh hóa hổ cứu vua Lý Thần Tông là giúp nhà vua quy y sám hối làm lành lánh dữ- Ngài đã không nệ tài hèn sức mọn cố công sang đất Tống làm nên Đại Nam tứ khí ( Tượng Phật, hồng chung, đỉnh, vạc) chính là khởi nguyên cho nghề đúc đồng của văn hóa dân tộc? Một số người phản biện dựa trên những yếu tố kỳ bí để phản bác. Nhưng không, tước bỏ những chi tiết thần bí, siêu nhiên phần còn lại về hành trạng của Thiền sư Minh Không là bậc cứu nhân độ thế, là đại hùng đại lực- là vị thánh bất tử trong lòng dân tộc và nhân dân…
Từ cố cung nhìn về phía Tây xa xa là dãy Tam Điệp hùng vĩ sừng sững ngang trời; chếch Nam là vùng đồng bằng chiêm trũng và biển Kim Sơn ầm ào sóng vỗ. Cả hai là đất thiêng, chứng tích lịch sử. Với Tam Điệp, trạm dừng chân cuối của đoàn hùng binh thần tốc Quang Trung- Nguyễn Huệ. Nơi núi này, nhà vua đã chỉ dụ mở tiệc khao quân, tạm sắm lễ vật cúng tết trước (30 tháng chạp- Mậu Thân 1788) hẹn mùng bảy tết vào Thăng Long mở đại tiệc mừng chiến thắng (Kỷ Dậu-1789). Còn đất Kim Sơn khi xưa vốn là biển. Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ phụng mệnh tới đây cùng dân khai hoang lấn biển, dựng tổng lập làng, vị thần khai canh biến biển mặn thành đồng lúa đồng cói hôm nay. Một tiếng chuông chùa ngân vang trong tĩnh lặng. Khách hành hương nghe trong mênh mang đất trời sâu thẳm tiếng vọng rầm rập đoàn quân áo vải Tây Sơn. Khói lam chiều lượn lờ trên mái ngói thôn xóm Kim Sơn nghe âm vang những nhác cuốc buổi đầu chặn biển đắp đê… Một cảm giác lâng lâng xao xuyến man mác đượm tình nước hồn quê, ra về dạ nhớ khó quên…
Chuyến xe chuyển dời, bất chợt người bạn đồng hành hát nhỏ ca từ và giai điệu Trịnh Công Sơn: “… Đường nào dìu tôi đi đến cơn say/ Một lần nằm mơ tôi thấy tôi qua đời/ Dù thật lệ rơi lòng không buồn mấy/ Giật mình tỉnh ra ồ nắng lên rồi…”. Hóa ra chàng nhạc sĩ tài hoa xứ Huế cũng mang hơi thở thiền.
Về đây không vào thăm Bích Động coi như chưa tới Hoa Lư. Người bạn thơ đồng điệu cố tìm một “ Ngư nhàn” đưa chúng tôi vào Tam Cốc. Nam Thiên đệ nhị động quả danh bất hư truyền. Một Hạ Long trên cạn đẹp như tranh khéo như đặt. Tam Cốc, Bích Động với ghềnh, ngòi, động, núi - một danh thắng ẩn chứa những trầm tích xưa. Thuyền chèo trên Ngô giang giữa chằng chịt núi đá vôi cao thấp, to nhỏ đẹp như bài tứ tuyệt thiền thi. Người chưa quen sông nước tưởng như mũi thuyền chạm vào vách đá rồi chuyển dời. Hóa ra chỉ là mái chèo điệu nghệ cùa lão ngư.
Chao ôi! Cơ man bao là núi và bóng núi in trên dòng nước chẳng đếm xuể, đẹp như tranh minh họa thơ thiền. Dòng cảm xúc liên tưởng trong tôi “ Thi trung hữu họa”, câu thơ ngũ ngôn thất ngôn của các thiền sư thời Đinh- Lê- Lý- Trần dường như có màu tranh của Bích Động?
------------------------------------------------------------
Lê Quang Kết
Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Bảo Lộc
454 Trần Phú Bảo Lộc, Lâm Đồng
ĐT: 0633 717 123 – 0907 615 510
Email: lequang54@gmail.com

Chủ Nhật, 13 tháng 9, 2009

Nhớ mái chùa quê- Lê Quang Kết

Tùy bút

NHỚ MÁI CHÙA QUÊ

Lê Quang Kết

Huế quê tôi làng nào cũng có chùa làng. Tuổi thơ tôi êm đềm trôi qua với bao kỷ niệm đẹp về mái chùa - nơi đã dạy chúng tôi bài học đầu tiên về đạo làm người, về từ bi hỷ xã để bước chân vào cõi đời đầy hệ lụy. Những lúc vấp ngã, sóng gió tôi lại nhớ về mái chùa quê để nghe lòng bình yên, thanh thản, xua tan đi bao muộn phiền, lắng sâu từ tâm với đời với người…

Ngày đó xa chùa xa quê, tôi đọc Mây Tần của Nguyễn Bính: “ Mai này tôi bỏ quê tôi/ Bỏ trăng bỏ gió, chao ôi bỏ chùa!/ Đem thân đi với giang hồ/ Cây đa bến cũ con đò lênh đênh…”. Chưa tuổi đến trường, tôi đã đến chùa theo chân bà ngoại. Buổi lễ khai tâm năm ấy, ngót nghét năm mươi năm rồi tôi vẫn nhớ như in. Bổn sư giọng nhẹ nhàng, trầm ấm:- Tuổi nhỏ đến chùa là kính Phật trọng tăng, làm lành tránh dữ, hiếu để với mẹ cha, vâng lời anh chị, yêu thương mọi người, cố gắng học hành… Bài thuyết pháp “ Con dao trong tâm” mà thầy giảng ngày ấy đã theo con cho đến tận bây giờ - “… Không, tôi không có nói ông quăng con dao bén trong tay ông, tôi muốn ông quăng con dao bén trong tâm ông kia mà…”.

Làng quê tôi ai cũng đi chùa với tâm niệm mộc mạc, bình dị: Ở hiền gặp lành, gieo nhân gặt quả, tu nhân tích đức cho muôn đời con cháu mai sau. Quanh năm tất bật chuyện đồng áng muối dưa nhưng ai nấy đều chăm lo từ thiện theo cách riêng của mái chùa quê - đó là hủ gạo giúp người khó khăn hoạn nạn. Mỗi bữa khi đong gạo nấu cơm chỉ cần bốc một nắm bỏ vào hủ, của ít lòng nhiều, mỗi người bớt một lưng cơm để sẻ chia với bao người nghèo khó. Oanh vũ chúng tôi được phân công thu gom rồi các anh chị huynh trưởng bàn tính giúp ai cụ thể. Trong làng ngoài xã ai gặp rủi ro, bất hạnh, thiếu đói là có lon gạo từ thiện chùa quê. Năm ấy thiên tai mất mùa nhà mệ Khoan gặp khó chúng tôi tránh không tới nhận gạo, thế là mệ tự tay mang gạo từ thiện ra chùa rưng rưng tấm tức: - Gia đình phật tử chê tôi nghèo phải không? Nghèo nhưng tôi đã tâm nguyện nắm gạo từ thiện cho đến cuối đời nhắm mắt… Nhận nải gạo từ tay bà mẹ quê, nhìn quanh oanh vũ trai gái có người rơm rớm nước mắt.

Người làng tôi ai cũng niệm Phật ăn chay. Nhiều người già trường trai, người trẻ chí ít cũng tứ trai vào ba mươi, mồng một, mười bốn, rằm. Nhà nào cũng dự trữ tương cà dưa muối cây nhà lá vườn cho những ngày chay. Những bữa cơm chay đạm bạc thắm đượm tình quê. Trai tịnh làm mọi người gần gũi, hiền hòa, yêu thương và gắn bó với nhau hơn;mọi giận hờn, xích mích, bực tức dường như tan biến những hôm lễ chùa vía Phật. Bây giờ có lúc tôi được ăn chay với bao thứ ngon lạ thế mà không quên được bữa chay mẹ nấu nơi quê nhà ngày ấy…

Chúng tôi quây quần lớn lên bên mái chùa quê. Các anh chị huynh trưởng đã dạy dỗ dìu dắt lớp chúng tôi nên người. Chuyện bi thương xảy ra sau mùa Vu Lan năm ấy, trận lụt lịch sử đã cướp đi của chúng tôi hai người thân, anh Tâm- chị Liên huynh trưởng. Mải mê vớt củi, dòng nước đã cuốn trôi cả hai vợ chồng để lại hai cháu nhỏ Hiếu, Hạnh. Các anh chị đoàn áo Lam đã quyết định tổ chức thêm Vu Lan muộn vào rằm Trung Thu tháng tám. Hàng trăm thanh thiếu đồng niên(oanh vũ) trong vòng tay dây thân ái, trên ngực ai cũng cài nụ hồng chỉ riêng hai em Hiếu, Hạnh cài hoa hồng trắng. Tất cả chúng tôi lặng lẽ…bùi ngùi…thổn thức…

Hiếu, Hạnh giờ này đang ở đâu? Các em có nhớ về mái chùa quê thuở ấy?

-----------------------------------------------------------------------------------------

Làng quê yên ả- Thái Bá Tân

Chủ Nhật, 13/09/2009, 09:48 (GMT+7)

Làng quê yên ả

Minh họa: Lê Thiết Cường
TTCT - Gần về đến làng thì có dông. Cơn dông bất chợt đầu hè ngắn và ấm, thoảng mùi hăng con đường đất bị hun nóng lâu ngày, mùi cỏ cháy và cả mùi gì đấy lẫn lộn, rất nông thôn và cũng rất đặc biệt.

Lác đác một vài tiếng sấm. Không thấy chớp. Có thể có chớp nhưng vì mặt trời chiếu sáng nên không thấy. Những đụn mây vần vo bay từ biển lên rồi dừng lại trên đỉnh Ba Chạc. Còn phía tây trời vẫn quang, nắng vàng rực rỡ.

Ông Bùi vào trú trong ngôi đình bên hồ sen ngay đầu làng. Nó vốn là ngôi đình cổ nổi tiếng thiêng và đẹp nhưng bị phá gần hết cuối những năm sáu mươi, không do máy bay Mỹ mà do chính dân làng, theo lệnh của phòng văn hóa huyện khi rộ lên chủ trương “xây dựng đời sống mới”. Nghe nói đã có kế hoạch trùng tu lại toàn bộ, nhưng tạm thời nó chỉ còn lại khung nhà trống huếch, mái thủng ngói, đôi chỗ bằng chiếc mâm con. Thời đó dù đã xa làng, ông ngẫu nhiên được chứng kiến cảnh phá hủy ấy. Tổ chức lễ hẳn hoi, có cờ trống và những bài phát biểu hùng hồn. Lễ phá đền chùa.

Bây giờ ông Bùi không nghĩ đến chuyện đáng buồn đó. Ông đang vui vì lâu ngày được về thăm quê. Niềm vui ấy bắt đầu từ khi bước xuống ôtô trên con đường nhựa phẳng lì cách làng không xa, khi ông vừa thong thả đi bộ vừa lâng lâng ngắm đồng lúa xanh rờn, mấy đứa trẻ chăn trâu đang chơi khăng trên Gò Chùa hệt như ông cách đây bốn, năm chục năm. Cảnh làng quê yên ả làm ông cảm động. Lũy tre bao bọc quanh làng vẫn còn, bất chấp những thay đổi to lớn của thời đại. Ông thích thú nghĩ bụng chỉ chốc nữa thôi khi vào bên trong, ông sẽ được lũy tre làng ông che chở, không chỉ khỏi những cơn gió mạnh từ biển mà cả những cơn gió độc của đời.

Cả cơn dông bất chợt này cũng làm ông vui. Thậm chí ông còn nấn ná một lúc bên ngoài cho mưa rơi lên mặt và làm ướt chút áo quần. Một niềm vui ngây thơ kiểu trẻ con, khiến ông bất giác mỉm cười.

Chợt có mấy cô gái làng không hiểu từ đâu chạy ùa vào cùng trú mưa bên ông, mang theo cả tiếng nói cười vui vẻ và dường như cả cái lạnh. Những cô gái hồn nhiên, xinh đẹp ông không biết tên nhưng chắc biết tên bố mẹ hoặc ông bà họ. Ông nhìn các cô, nhìn xuống ao sen và nghĩ:

Trời mưa lên mặt hồ sen
Những giọt to như đồng tiền.

Mấy cô đầu trần ướt hết,
Vừa chạy vừa run vì rét.

Lại còn trêu nhau, còn cười,
Áo ướt, dính chặt vào người...

Các cô đội nón nhưng vẫn bị ướt, làm những chiếc áo mỏng dính chặt vào người. Hết mưa, ông còn hồi lâu nhìn theo những eo lưng thon thả dính áo ướt ấy. Không hiểu sao ông thở dài như nuối tiếc điều gì.

Trong làng, ông Bùi không còn ai thân thích. Ông ở nhờ nhà một người quen trước cùng học trường làng, nay làm trưởng thôn. Suốt buổi chiều hôm ấy ông khoan khoái tận hưởng sự tĩnh mịch của miền quê yên ả. Đang dịp làm cỏ đợt hai cho lúa, mọi người ra đồng hết. Trẻ con hoặc bận chăn trâu, hoặc đang ở trường, thành ra ông đi một vòng quanh làng chỉ gặp mấy người tuổi ông nhưng do cuộc sống vất vả trông già hơn nhiều. Nói chuyện với họ thực ra chẳng mấy thú vị, có người phải quát vào tai mới nghe nổi vì nghễnh ngãng, nhưng ông thích, vì nó gợi nhớ nhiều kỷ niệm, có cả kỷ niệm buồn nhưng bây giờ ông thấy bình thường. Cũng có thể do ông đang trong trạng thái lâng lâng của ngày đầu rời thành phố về làng, thấy cảnh làng vẫn điền viên, thơ mộng như xưa dù cuộc sống đã thay đổi hẳn, theo hướng tốt lên, tất nhiên.

Nhà ông trưởng thôn nhìn ra một con kênh nhỏ được đào để dẫn nước tưới cho cả huyện Xuân Phú phía trên. Chủ nhà đi họp trên xã. Chỉ cô con út ôn thi đại học ở nhà. Hiện cô đang giặt quần áo dưới kênh. Cô ăn mặc, búi tóc kiểu nhà quê, và cũng kiểu nhà quê toát lên ở cô sự khỏe mạnh, dung dị đến cảm động. Chốc chốc cô ngừng tay, đỏm dáng soi bóng mình dưới nước. Ngồi hút thuốc trong sân, ông bâng quơ nhìn cô, rồi tự lúc nào không biết mấy câu thơ vu vơ xuất hiện trong đầu. Ông là nhà thơ, còn khá nổi tiếng một thời, thường viết thơ triết lý, nhưng về quê lần này ông toàn nghĩ những chuyện đời thường dung dị.

Dưới ao, cô gái đang yêu
Giặt ít, ngắm mình thì nhiều.

Tôi nghịch ném hòn đá nhỏ,
Cô gái giật mình xấu hổ.

Còn tôi, đứng nấp trong nhà,
Nghĩ mình cũng chưa thật già.

Ông mỉm cười với chính mình. Bài thơ đến thật hồn nhiên, hợp người hợp cảnh, dù không ném đá trêu cô gái nhưng ông hình dung đã làm điều đó. Ông cũng thấy như trẻ ra hàng chục tuổi.

Cũng trong tâm trạng phấn khích như thế, buổi tối ăn cơm xong, bất chấp sự phản đối của chủ nhà, ông Bùi vác cần câu ra đầm Vạc. Ông chỉ muốn được sống lại những ngày còn trần truồng tắm ở đó, những ngày vô tư và có lẽ hạnh phúc nhất của đời ông. Buổi chiều đi ngang, thấy mấy bụi cây rậm rạp bên đầm, ông đã nghĩ tới chuyện tối đến đi câu.

Minh họa: Lê Thiết Cường
Đêm trăng sáng, ngoài đồng vắng còn sáng hơn. Cơn dông rửa sạch bầu trời, không khí ẩm ướt, ánh trăng trở nên hữu hình, sền sệt như sữa loãng. Đầm Vạc khá rộng, nước trong, bao đời nay là chỗ tắm công cộng của dân làng. Có thể vì thế mà người ta không biến nó thành hồ nuôi cá. Thanh niên làng bên nhiều khi hứng chí vượt cả hai cánh đồng rộng đến đây tắm nhờ. Mặt hồ không hiểu sao có màu đen sẫm chứ không ánh bạc như ông tưởng, và chi chít hàng nghìn, vạn ngôi sao.

Không muốn ai nhìn thấy, ông Bùi ngồi lên chạc ba thân cây nhãn mọc nghiêng trên mặt đầm, thong thả buông câu. Ông tận hưởng sự tĩnh lặng của làng quê yên ả, hơn nữa, lại làng quê của chính ông. Ông không nghĩ gì, hoặc cố không nghĩ gì. Người ông như mềm ra, có lúc thiu thiu buồn ngủ. Ông thấy mình hạnh phúc có được một làng quê như thế để về thăm, là điều thật tiếc, ông rất ít làm trong mấy chục năm qua. Biết đâu, không ra thành phố, không thành nhà thơ, mà ở lại làng làm anh nông dân bình thường, cuộc đời ông sẽ tốt hơn, thanh thản hơn?...

Cơn buồn ngủ và những ý nghĩ tản mạn bị ngắt quãng bởi tiếng líu ríu của mấy cô gái đang chạy từ làng ra. Bốn cô. Đến mấy bậc đá dẫn xuống đầm cách chỗ ông ngồi chỉ dăm mét, các cô nhất loạt cởi hết áo quần rồi nhảy ùm xuống tắm, không kịp để ông lên tiếng nhắc đang có người. Ông chỉ còn biết mỉm cười lắc đầu và ngồi im không dám động đậy. Lại một bài thơ nữa tự đến.

Mấy cô thôn nữ hồn nhiên
Đêm khuya tắm dưới ao sen,

Rúc rích nói cười, không thấy
Có tôi ngồi câu cạnh đấy,

Làm tôi lặng người quay đầu,
Cá cắn mà không giật câu...

Vậy là tình cờ, ông Bùi được chứng kiến một bầy tiên đang tắm truồng ngay trước mặt mình. Không dám nhìn nhưng ông biết các cô đẹp, với những đường nét trẻ trung, khêu gợi. Các nàng tiên tắm, cười nói, té nước trêu nhau ồn ĩ như bầy trẻ.

Bỗng một nàng tư lự nói:

“Chúng mày ạ, cái Thơm nó rủ tao lên thành phố bán trinh. Những hai triệu cơ đấy. Nó bảo tìm được mối rồi...”.

“Khiếp! - một cô khác lên tiếng - Mày nói gì sợ thế!”.

“Còn hơn cứ thế này sớm muộn bọn mình cũng bị mấy thằng mất dạy trong làng cưỡng hiếp. Hai triệu chứ ít à? Đằng nào chẳng mất. Có đứa nào đi với bọn tao không?”.

“Mày nói có lý. Nhưng để tao nghĩ đã”, một cô đáp.

“Đúng là trai làng mình thật láo. Thanh niên làng khác đến bị chúng rình ném đá vỡ đầu, hoặc công khai kéo nhau đến đánh. Tuần trước cái Lụa con bà Thảo bị hiếp đấy, chắc chúng mày đã biết. Đi chợ huyện về thì bị hiếp ở Đồng Chùa vì lúc ấy đã tối, lại một mình. Nó biết, tao biết, nhiều người nữa biết nhưng không ai muốn làm ầm lên. Để ế chồng à? Mà chúng thì được thể chắc sẽ còn tiếp tục làm tới. Sợ lắm. Tao chỉ mong mau mau thoát khỏi cái làng này!”.

“Đúng đấy, phải lo mà chuồn nhanh thôi, chúng mày ạ”.

Rồi các nàng tiên lại quay sang đùa nghịch, cười nói vui vẻ như không hề mới bàn nhau cái chuyện bán trinh khủng khiếp kia. Có lẽ các nàng đã quá quen với những chuyện như thế.

Ông Mùi lặng người, bây giờ không chỉ vì sự hiện diện của ông trước sự lõa lồ của các cô gái. Ông thấy bàng hoàng, chua xót như có cái gì đang vỡ ra bên trong.

Sáng hôm sau ông lên đường sớm, quay lại cái thành phố ồn ào ông hăm hở muốn thoát khỏi ngày hôm trước.

Ngồi trên ôtô, ông thở dài ngoái lại nhìn lũy tre um tùm bao quanh làng ông. Lũy tre, những thửa ruộng lúa sắp lên đòng, những con trâu hiền lành gặm cỏ bên đường đã tạo cho nó cái vẻ điền viên thơ mộng. Một làng quê yên ả. Làng quê của ông...

Chỉ với một chi tiết đắt giá ở cuối truyện, mà cả câu chuyện đang yên lành bỗng ầm ầm dậy sóng. Như sóng sông Tiền Đường trong Truyện Kiều. Chi tiết ấy kéo phắt nhân vật chính về đô thị, đập vỡ tan ảo ảnh phù vân trên mặt làng quê yên tĩnh.

Cách viết của Thái Bá Tân (thường được biết đến với tư cách là một dịch giả Anh - Nga) rõ là của người ham nhặt chuyện đời, sau nhiều nghiệm sinh cay đắng, đã vỡ lẽ thời buổi đồng tiền đang xâm hại tận sâu thẳm hồn quê Việt. Đã hết những cuộc tắm sông hồn nhiên của gái quê có thể từng khiến Hàn Mặc Tử thi sĩ mộng mị: ô kìa bóng nguyệt trần truồng tắm, lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe...

Thấy thương nhân vật trốn đô thị, thương nhớ đồng quê, “tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa”. Làng quê tưởng bát ngát bình yên bỗng thành đường viền đậm, đóng khung bức tranh quê, giờ nhuốm đặc màu tục lụy thị thành.

Cái kết truyện ngắn nhỏ xinh này đã làm “trùng khít” hai tiếng thở dài. Một của nhà văn. Một của bạn đọc.

Ô, có phải truyện nào cũng tinh chế được điều giản dị này đâu?

NGUYỄN THỊ MINH THÁI

Hà Nội, 2003

Truyện ngắn: Thái Bá Tân

Thứ Năm, 3 tháng 9, 2009

Cõng mẹ đi chơi...Hà Đình nguyên

Cõng mẹ đi chơi…

02/09/2009 23:42
Nhạc sĩ Trần Quế Sơn - Ảnh: nhân vật cung cấp
Mùa Vu lan, người ta hay hát những ca khúc về mẹ như Lòng mẹ (Y Vân), Bông hồng cài áo (Phạm Thế Mỹ), Mẹ tôi (Nhị Hà), Quê mẹ (Thu Hồ)... Và gần đây, có một ca khúc mới được sáng tác mà nếu đã nghe thì chắc chắn rằng bạn sẽ thấy lòng mình thắt lại - ca khúc Cõng mẹ đi chơi của Trần Quế Sơn.

“Tôi vẫn hay khóc khi nhớ về mẹ”

Cõng mẹ đi chơi đã từng được Ánh Tuyết, Quang Linh, Đỗ Quyên và nhiều ca sĩ khác hát nhưng thú thật tôi vẫn thích chính tác giả hát ca khúc này, mặc dầu Sơn xử lý bài hát không tinh tế bằng ca sĩ chuyên nghiệp nhưng nhìn anh hát hầu như ai cũng phải bật khóc. Tôi đã nhiều lần nghe Sơn hát. Nhiều lần nước mắt ngập mi...

Sơn kể: “Năm 1997, tôi đã sống xa mẹ 8 năm. Dù đã là thanh niên nhưng tôi vẫn hay khóc khi nhớ mẹ. Tôi nhớ mẹ tôi cứ phải thức dậy lúc bốn giờ sáng làm tất cả mọi việc như đi chợ, bếp núc, đồng áng... Mẹ không bao giờ được nghỉ trưa, chỉ chợp mắt vài giờ buổi tối. Nhớ nhất là những bữa cơm, mẹ chỉ dùng phần đầu và xương cá, phần ngon nhất dành hết cho các con. Từ tuổi thanh xuân cho đến khi già, mẹ tôi vẫn vậy... Nhớ mẹ, tôi hay khóc và rất muốn viết một ca khúc tặng mẹ”.


Nhạc sĩ Trần Quế Sơn với ca sĩ đồng hương Mỹ Tâm - Ảnh: Nhân vật cung cấp

Rồi Sơn cho biết, vào một đêm nọ anh phiêu diêu trên đường phố Sài Gòn cùng với Văn Hường - một anh bạn thi sĩ đường phố. Trong câu chuyện lan man, Văn Hường kể một câu chuyện có cậu bé cõng mẹ đi đâu đó mà người mẹ lại khóc sụt sùi. Rồi anh ấy đọc thơ: “Ngày xưa mẹ cõng con/Con cười trên lưng mẹ/Ngày nay con cõng mẹ/Mẹ khóc ướt lưng con”. Đêm ấy, Trần Quế Sơn nghĩ đến một hình ảnh vô thường, vô ngã: “Tôi muốn cõng mẹ đi vào một cõi thênh thang, có suối, có hoa, có trời trong bướm lượn, cho mẹ biến thành tiên nữ, cho mẹ quên hết nhọc nhằn dày vò thân mẹ.

Tôi muốn cõng mẹ đi theo con cóc là cậu ông trời, cõng mẹ cưỡi gió bay lên trời xin thêm tuổi cho mẹ. Tôi run sợ khi nghĩ đến ngày mẹ mất: mất mẹ bếp sẽ lạnh lẽo đến mức nào, mất mẹ dây trầu sẽ chết khô mất thôi, mất mẹ khi buồn vui con biết tựa vào ai?...”. Thế là anh viết: “Dìu mẹ đi chơi! Cõng mẹ đi chơi!... Mẹ và con đi chơi, thênh thang một cõi, quên những nhọc nhằn, quên hết dày vò tâm can... Từng nụ hoa tinh khôi, vi vu cười gió, ươm nắng hồng đào, như những mặt người tinh khôi... Mẹ và con đi chơi, đi ra bờ suối, con suối chạy dài, khua cả vòm trời lung lay... Rồi vài mươi năm sau, đi qua trần thế, con cõng mẹ về, con cõng mẹ về... Thiên Thai...”. Bài hát Cõng mẹ đi chơi ra đời từ cảm xúc ấy.

Mẹ là tất cả

Trần Quế Sơn cho biết, lúc đầu anh viết với nhịp 3/4 êm đềm, nhẹ nhàng nhưng đến năm 2001, khi anh bị tai nạn giao thông phải nằm nhiều tháng tại Trung tâm Chấn thương chỉnh hình TP.HCM. Mẹ anh từ quê vào nuôi. Bệnh viện quá tải, mẹ anh phải chui xuống gầm giường để ngủ. Rồi khi bà đi chợ mua thức ăn cho anh lại bị tai nạn giao thông trật xương tay trái... Hình ảnh người mẹ đội nón lá, tay băng bột đi lững thững giữa đường phố Sài Gòn như những nhát dao cứa vào tim, vào hồn anh...


Trần Quế Sơn sáng tác không nhiều. Hơn mười năm sau khi tốt nghiệp Nhạc viện TP.HCM, “gia tài” của anh cũng chỉ mới có khoảng dăm chục ca khúc, trong đó có hơn mười bài được phổ biến. Viết ít, nhưng ca khúc nào cũng đầy cảm xúc, cũng hàm chứa “nội công thâm hậu” trong bút pháp. Bằng chứng là ca khúc của anh từng đoạt giải nhất, nhì, ba của Hội Nhạc sĩ Việt Nam trong 2 năm liên tiếp (2004 và 2005). Trong số các ca khúc đó, có thể nói Cõng mẹ đi chơi là một tác phẩm “xuất thần” của anh. Năm 2005, ca khúc Cõng mẹ đi chơi được trao giải nhất của Hội Nhạc sĩ Việt Nam.

H.Đ.N


“Tôi nhận ra nhịp 3/4 êm đềm, nhẹ nhàng không diễn tả hết nỗi lòng của tôi. Vết thương ở chân tôi không đau xé trời bằng nỗi đau trong tâm khảm khi tôi nghĩ về cuộc đời cơ cực của mẹ. Tôi phải viết Cõng mẹ đi chơi kịch tính, nội tâm hơn, hiện đại hơn. Và tôi đã viết lại theo thể loại rock giao hưởng (Symphony rock) và phải mất đến hơn 2 năm để tự hòa âm phối khí cho ca khúc này (tôi làm rất kỹ và cũng chỉ tạm hài lòng). Năm 2004, tôi nhờ ca sĩ Hồ Quỳnh Hương thu âm Cõng mẹ đi chơi, nhưng sau khi nghe bản demo do tôi hát, Hương bảo: “Anh hát hay vậy sao không thu luôn đi!”. Tôi không biết mình hát thế nào, nhưng nghe Hương động viên tôi bèn liều làm ca sĩ...”, Trần Quế Sơn tâm sự.

Đoạn A (trên) với tiết tấu sôi nổi, ca từ lung linh bao nhiêu thì khi chuyển qua đoạn B nghe xé lòng bấy nhiêu: “Hôm nay cõng mẹ đi chơi. Một mai ngồi khóc bên trời. Hôm nay cõng mẹ đi chơi. Một mai mẹ bỏ con rồi. Mẹ để con mồ côi. Hôm nay cõng mẹ đi chơi. Một mai ngồi khóc bên trời. Một mai mẹ bỏ con rồi. Mẹ đành rời xa, rời xa con rồi... Cuối đời là một trò chơi... TRÒ CHƠI LÊN TRỜI!”.

Khi Trần Quế Sơn hát Cõng mẹ đi chơi trong chương trình truyền hình trực tiếp, đã có những vần thơ đồng cảm nhắn vào điện thoại: “Chiều nay cõng mẹ đi chơi. Kẻo mai mẹ phải lên trời còn đâu. Lưng con ướt đẫm giọt sầu. Giọt cay, giọt đắng bể dâu một đời” (bác sĩ Đại - Bệnh viện Quảng Nam); “Người ta cõng mẹ đi chơi. Còn tôi cõng cả một đời bơ vơ. Ngậm ngùi nhớ thuở còn thơ. Trên lưng mẹ cõng vô bờ yêu thương” (ca sĩ Tuyết Mai, mồ côi mẹ từ nhỏ).

Có một người hỏi khi Sơn viết Cõng mẹ đi chơi có biết một nhà tư tưởng nước ngoài đã từng nói: “Cái chết là một trò chơi lớn, dù không muốn nhưng ai cũng phải dự phần”. Trần Quế Sơn không trả lời vì anh biết rằng đó là cái ngưỡng cửa đáng sợ nhất mà ai rồi cũng phải bước qua, nhưng với anh mãi mãi vẫn là: “Con ra đời mẹ nhé. Con yêu mẹ nhất đời! Muôn ngàn năm sau nữa. Con cõng mẹ đi chơi...”.

Hà Đình Nguyên

Chủ Nhật, 23 tháng 8, 2009

Mùa Vu Lan báo hiếu

Tình mẹ thiêng liêng lắm!

23/08/2009 07:18 (GMT+7)
Kích cỡ chữ: Giảm Tăng

Đọc bài viết 'Tình mẫu tử' của blogger Sunny Nhung, độc giả Hồng Ánh đã gửi cho chuyên mục Chơi Blog một câu chuyện xúc động bạn sưu tầm được, như một món quà nhỏ chia sẻ với độc giả. Dù đã đọc tới lần thứ 3 mà bạn vẫn rơi nước mắt! Hồng Ánh (anhoptin1@yahoo.com)

Suốt thời thơ ấu và cả khi lớn lên, lúc nào tôi cũng ghét mẹ tôi. Lý do chính có lẽ vì bà chỉ có một con mắt. Bà là đầu đề để bạn bè trong lớp chế giễu, châm chọc tôi.

Mẹ tôi làm nghề nấu ăn để nuôi tôi ăn học. Một lần bà đến trường tìm tôi khiến tôi phát ngượng. Sao bà lại có thể làm như thế với tôi? Tôi lơ bà đi, ném cho bà một cái nhìn đầy căm ghét rồi chạy biến. Ngày hôm sau, một trong những đứa bạn học trong lớp la lên: "Ê, tao thấy rồi. Mẹ mày chỉ có một mắt!".

Tôi xấu hổ chỉ muốn chôn mình xuống đất. Tôi chỉ muốn bà biến mất khỏi cuộc đời tôi. Ngày hôm đó đi học về tôi nói thẳng với bà: "Mẹ chỉ muốn biến con thành trò cười!".

Mẹ tôi không nói gì. Còn tôi, tôi chẳng để ý đến những lời nói đó, vì lúc ấy lòng tôi tràn đầy giận dữ. Tôi chẳng nghĩ gì đến cảm xúc của mẹ. Tôi chỉ muốn thoát ra khỏi nhà, không còn liên hệ gì với mẹ tôi. Vì vậy, tôi cố gắng học hành thật chăm chỉ, và sau cùng, tôi có được một học bổng để đi học ở Singapore.

Sau đó, tôi lập gia đình, mua nhà và có mấy đứa con. Vợ tôi là con nhà gia thế, tôi giấu nàng về bà mẹ của mình, chỉ nói mình mồ côi từ nhỏ. Tôi hài lòng với cuộc sống, với vợ con và những tiện nghi vật chất tôi có được ở Singapore. Tôi mua cho mẹ một căn nhà nhỏ, thỉnh thoảng lén vợ gửi một ít tiền về biếu bà, tự nhủ thế là đầy đủ bổn phận. Tôi buộc mẹ không được liên hệ gì với tôi.

Một ngày kia, mẹ bất chợt đến thăm. Nhiều năm rồi bà không gặp tôi, thậm chí bà cũng chưa bao giờ nhìn thấy các cháu. Khi thấy một bà già trông có vẻ lam lũ đứng trước cửa, mấy đứa con tôi có đứa cười nhạo, có đứa hoảng sợ. Tôi vừa giận vừa lo vợ tôi biết chuyện, hét lên: "Sao bà dám đến đây làm con tôi sợ thế? Đi khỏi đây ngay!". Mẹ tôi chỉ nhỏ nhẹ trả lời: "Ồ, xin lỗi, tôi nhầm địa chỉ!" và lặng lẽ quay đi. Tôi không thèm liên lạc với bà trong suốt một thời gian dài. Hồi nhỏ, mẹ đã làm con bị chúng bạn trêu chọc nhục nhã, bây giờ mẹ còn định phá hỏng cuộc sống đang có của con hay sao?

Một hôm, nhận được một lá thư mời họp mặt của trường cũ gởi đến tận nhà, tôi nói dối vợ là phải đi công tác. Sau buổi họp mặt, tôi ghé qua căn nhà của mẹ, vì tò mò hơn là muốn thăm mẹ. Mấy người hàng xóm nói rằng mẹ tôi đã mất vài ngày trước đó và do không có thân nhân, sở an sinh xã hội đã lo mai táng chu đáo. Tôi không nhỏ được lấy một giọt nước mắt.

Họ trao lại cho tôi một lá thư mẹ để lại cho tôi:

"Con yêu quý,
Lúc nào mẹ cũng nghĩ đến con. Mẹ xin lỗi về việc đã dám qua Singapore bất ngờ và làm cho các cháu phải sợ hãi. Mẹ rất vui khi nghe nói con sắp về trường tham dự buổi họp mặt, nhưng mẹ sợ mình không bước nổi ra khỏi giường để đến đó nhìn con. Mẹ ân hận vì đã làm con xấu hổ với bạn bè trong suốt thời gian con đi học ở đây.

Con biết không, hồi con còn nhỏ xíu, con bị tai nạn và hỏng mất một bên mắt. Mẹ không thể ngồi yên nhìn con lớn lên mà chỉ có một mắt, nên mẹ đã cho con con mắt của mẹ. Mẹ đã bán tất cả những gì mẹ có để bác sĩ có thể thay mắt cho con, nhưng chưa bao giờ mẹ hối hận về việc đó. Mẹ rất hãnh diện vì con đã nên người, và mẹ kiêu hãnh vì những gì mẹ đã làm được cho con. Con đã nhìn thấy cả một thế giới mới, bằng con mắt của mẹ, thay cho mẹ..

Mẹ yêu con lắm,
Mẹ của con...".

Theo Ngôi Sao

Thứ Sáu, 21 tháng 8, 2009

Thầy tôi trong cõi gió trăng- Cao Huy Thuần

Thầy Tôi trong cõi gió trăng (Báo Giác Ngộ)

20/08/2009 16:54 (GMT+7)
Kích cỡ chữ: Giảm Tăng
Từ chốn rỗng không… Thầy tôi viết mấy ngàn trang sách chắc cũng chỉ muốn dẫn tôi đến chỗ đó mà thôi, cái chỗ có ông tiều phu thất học nghe một câu kinh mà ngộ đạo: “Ưng vô sở trụ…”. Đừng để tâm đậu vào một chỗ nào cả...

Từ bao giờ thầy là thầy của tôi? Lúc nhỏ, tôi đâu dám bước chân vào chùa Từ Đàm to lớn thế? Chùa của tôi lúc đó là Kim Tiên, nơi tôi thường theo mẹ tôi đến thắp hương trên mộ những người thân. Lên Kim Tiên phải đi qua Từ Đàm, nhưng đó là thế giới của “các bác”, của “giảng đường”, của “Ban Trị sự”, không phải thế giới của tôi, đứa bé đi chùa chỉ cốt làm vừa lòng mẹ.

Bỗng nhiên tôi nhảy vọt một bước từ bờ bên này qua bờ bên kia. Chưa là “bác”, tôi bỗng thấy mình được ngồi hầu trà các bậc thầy lớn ở Từ Đàm, lại còn được ngồi cùng bàn trai tăng, ăn ké dĩa hột bùi mà sau này tôi mới biết là món ăn quý của các thầy ở Huế, dù chỉ là trái cây ướp muối. Buổi tối, trời nóng, tôi được ngồi góp chuyện với các bậc trưởng thượng ngoài sân, ngồi khá gần để “dạ” và “thưa” nhưng khá xa để không dám hưởng làn gió mát cực lạc từ cánh quạt của chú tiểu đứng hầu sau lưng.

Như vậy, thầy là thầy của tôi từ thuở Từ Đàm, là trái tim của Phật giáo hồi sinh? Chắc cũng chưa phải, bởi vì thầy tôi hiền hòa, ít nói, mà thời thế lúc đó đòi hỏi một cặp mày quắc thướt, một giọng nói sang sảng. Thành phố lúc đó ào ào tiếng quân đi, ngựa hý; thầy tôi như người ngồi vót tre giữa đường: có ai từng thấy người ngồi chẻ lạt mở miệng nói chuyện phiếm bao giờ đâu? Người chẻ lạt rành nghề nhắm mắt vuốt tre cũng được, nhưng bao giờ cũng chăm chú như để hết tâm can vào đường dao. Lúc đó, tôi thích nghe tiếng ngựa hý hơn là ngồi nhìn đường dao của thầy tôi chứ! Vậy từ bao giờ thầy là thầy của tôi?

Ngự lãnh thanh phong phất diện vấn thùy năng tác Phật?

Bình tiền khô mộc đãi nhân tri ngộ vị khai hoa.

Câu đối đó đâu phải dành riêng cho tôi!

Gió lành đỉnh Ngự phơ phất trên mặt hỏi ai hay làm Phật?

Cây khô trước núi chờ người tri ngộ để nở hoa.

Thầy tôi nở hoa cho bao người tri ngộ, riêng gì mình tôi! Vả chăng, đêm qua cây hãy còn khô trước Ngự Bình, mới ngủ qua đêm hoa đã trắng đầu núi. Hoa trắng lúc nào vậy? Lúc nào thầy là thầy của tôi? Nửa đêm hay đầu sáng?

Thầy tôi viết rất nhiều, chữ nghĩa đầy bụng, nhưng ít nói chữ. Lần nào về nước tôi cũng ước mong được học thêm vài chữ, nhưng chưa bao giờ được đọc chung một trang sách với thầy tôi. Thầy ít nói, trò cũng lây tánh thầy. Nhưng hễ thầy tôi nói chữ nào là tôi ghim chữ nấy kỹ lắm. Có lần ngồi ăn bên cạnh thầy, tự nhiên thầy nhắc đến một ông tác giả nào đó bên Mỹ viết cả trăm trang sách để chỉ trích Phật giáo chủ trương diệt ngã. Tôi có đọc loáng thoáng đâu đấy rồi chẳng để ý làm gì mất công. Nghe thầy nhắc, tôi chợt lúng túng, chưa biết trả lời thế nào, ngồi chờ thầy nhai xong miếng cơm. Xong, thầy gác đũa, nói: “Có ngã đâu mà diệt?”. Tôi vỡ lẽ, thấy mình sao mà dốt thế, loay hoay làm gì cho mệt! Tôi thường học với thầy tôi những chuyện như thế. Nhưng có gì là chữ nghĩa bác học đâu?

Huống hồ thầy tôi ăn nói rất bình dân. Sự thực, thầy không nói: “Có ngã đâu mà diệt?”. Thầy nói: “Ngã mô mà diệt?”. Chuyện triết lý mà cứ nghe như chuyện trái bí trái bầu. Chữ “mô”, tuy vậy vẫn còn văn minh; thầy tôi còn dùng nhiều chữ đặc sệt nhà quê hơn nữa. Có lần tôi hỏi: Thì giờ đâu mà thầy dịch cả bộ luận Đại Trí Đô mấy ngàn trang như vậy? Thầy nói: “Rảnh khi mô mần khi nấy”. Rảnh lúc nào làm lúc đó. Chữ làm, nghe đã giễu rồi, giống như khi có ai đến nhà chơi giữa bữa cơm, chủ nhà mời: ăn chưa, làm một chén nhé? Từ làm đến mần, không những quê mà còn nghịch. Dịch mấy ngàn trang chữ Hán mà giỡn như vịt lội dưới ao.

Những chữ địa phương bình dân, quê mùa như vậy, thầy tôi đưa luôn vào văn chương. Giữa chùa Từ Đàm văn học, khách vào giảng đường gặp ngay hai câu đối:

Một chút giận, hai chút tham, lận đận cả đời ri cũng khổ,

Trăm điều lành, nghìn điều nhịn, thong dong tấc dạ rứa mà vui.

Đưa tôi vào đạo Phật như thế với nụ cười tủm tỉm, thầy tôi đâu cần mở trang sách nào dạy tôi? Vậy từ bao giờ thầy là thầy của tôi? Từ khi tôi bước chân vào giảng đường chùa Từ Đàm?

Có hai lần trong đời tôi được đứng sau lưng thầy tôi để hướng về Phật. Lần thứ nhất là khi thầy đến thắp hương cho thân phụ tôi. Thầy quỳ xuống niệm hương rất lâu, lâu như một tiếng chuông ngân, ngân mãi, ngân xa, xa mãi, không bao giờ dứt. Tôi thương thầy tôi nên cùng đi theo thầy trong tiếng chuông, đi mãi, đi xa, xa mãi, như không dừng. Lần thứ hai, tôi đứng sau lưng thầy niệm Phật trước khi bắt đầu giảng bài ở Học viện. Tôi thương thầy tôi nên cùng đi theo thầy trong tiếng Nam mô, theo mãi, theo xa, xa mãi, chỉ còn nghe gió thoảng trên mái hiên trống.

Tục đoạn khởi thần chung thức đắc tiêm trần bất trước nhãn,

Vinh khô thành mộng huyễn giác lai thế giới tổng duy tâm.

Mở tiếng chuông, khi dứt nối một mảy bụi trần không dính mắt. Hiểu được cảnh mộng huyễn tươi khô rõ ràng tam giới chỉ do tâm. Đố ai thấy một hạt bụi nào vướng trong tiếng chuông ngân. Tôi nói thấy, chứ không nói nghe, bởi vì lắng nghe theo chuông ngân, rõ ràng ta thấy tiếng chuông đi xa. Đó là cái thấy mà tôi không dùng với mắt, và tôi biết chắc rằng ai cũng có thể thấy như vậy, chỉ cần đi theo tiếng chuông và đừng nghĩ gì khác. Và cũng vậy, ai cũng có thể đi theo hình ảnh một cành cây khô mùa đông, một cành cây tươi mùa xuân, đi theo mãi, đi xa nữa, đi tận cùng vào bên trong từng thớ vỏ, đường gân. Trong cành khô đó, bao nhiêu xao động, bao nhiêu giọt sữa, giọt nhựa, giọt mầm, ai bảo nó khô? Trong cành tươi kia, kìa, một chiếc lá run rẩy, một cánh hoa úa màu, ai bảo nó tươi? Trong vài ngày, trong vài tuần, màu xanh sẽ nhú ra trên cành khô: nó khô bao giờ? Trong vài đêm, trong vài sáng, cành tươi kia sẽ không còn chiếc lá, vẫn nó đấy nhưng đâu là tươi? Với con mắt bên ngoài, ai cũng nói tươi khô. Đứng sau lưng thầy tôi, đi theo tiếng chuông với con mắt bên trong, tươi khô chỗ nào? Đang tươi là khô, đang khô là tươi, thầy tôi bảo tươi khô chỉ là một, không khác. Giá thử có ai cho mình viên thuốc thần, chui vào chăn ấm đánh một giấc chẵn một mùa đông, khi chui ra khỏi chăn, chắc chắn nhánh hoa lê vẫn điểm ba cánh trắng bên cửa sổ trong hây hẩy gió xuân. Có bao giờ hoa khô, có bao giờ hoa tươi?

Thầy tôi triết lý viển vông chăng? Đâu có! Khi tôi đi theo được tiếng chuông, tiếng Nam mô, đi theo cái tươi đang khô, cái khô đang tươi, tôi không còn thấy tôi. Không phải lúc nào tôi cũng thành công đâu nhé! Nhưng đứng sau lưng thầy tôi thì tôi không thấy tôi. Những lúc như thế, tôi nhẹ nhàng lắm, có chuyện gì bực cũng quên. Thầy tôi bảo: ai quên được mình trong một phút, phút đó là Niết bàn, Vô ngã là Niết bàn. Thầy tôi nói thêm: Mình là người thường, cho nên trong một ngày mình chỉ được một phút, vài phút Niết bàn, còn Đức Phật, Ngài không biết có Ngài nên Ngài Niết bàn không cùng không tận. Triết lý gì đâu, an vui đấy thôi! Có lẽ cành cây tươi kia cũng biết thế chăng? Có lẽ nó biết nó là mặt trời, nó là nhựa đất, nó là hơi sương, nó là tia nắng, nó là giọt mưa, nó là tất cả những yếu tố đó hợp lại chứ tự nó chẳng có cái gì là nó cả, cho nên nó mới óng ả mùa xuân như thế. Nó Niết bàn đấy! Mai mốt, lá rụng, hoa rơi, cây trụi, cành khô. Để làm gì? Để quên mình, để cho mình, để mất mình, để cành khô mới có chỗ đón tuyết tặng áo bông. Nó lại Niết bàn! Từ bao giờ thầy là thầy của tôi? Từ khi tôi học được Niết bàn trong vụn vặt đời sống thường ngày chăng?

Nhưng con người không phải là đóa hoa nên tôi lại phải triết lý vặt với thầy tôi. Đóa hoa nó chỉ nở, chỉ phô sắc thắm. Nó không nói tôi nở, tôi phô sắc thắm. Chuyện của nó làm là nở. Chuyện của giọt sương là long lanh. Chuyện của gió là thổi. Chuyện của tia nắng là chiếu. Con người thì không thế. Thở thì nói là tôi thở. Nghe thì nói là tôi nghe. Tôi thấy. Tôi nhìn đóa hoa. Cái “tôi” nào nhìn đóa hoa vậy? Cái “tôi” nào mà khi vui thì thấy hoa dường như biết cười, khi buồn thì thấy hoa như môi ai héo? Một “tôi” hay hai “tôi”? Tôi bây giờ phất phơ đầu bạc với tôi mấy chục năm trước tóc bềnh bồng vãng lai trước Trường Đồng Khánh là hai “tôi” hay một? Một làm sao được, vì ôi thôi dâu biển quá chừng. Nhưng ai phán đoán vậy? Cái “tôi” nào phán đoán rằng “tôi” này khác với “tôi” kia?

Xuân Diệu có một câu thơ mà tôi thích từ trẻ:

Bâng khuâng chiều ngẩn ngơ chiều

Lòng không sao cả hiu hiu sẽ buồn.

Có lẽ ý của câu thơ chỉ muốn diễn tả nỗi buồn man mác, nhẹ nhàng, vô cớ, thứ buồn lãng mạn mélancolique đặc biệt trong thơ văn Pháp thế kỷ XIX mà Xuân Diệu chịu ảnh hưởng đậm đà. Có lẽ chỉ thế thôi, nhưng câu thơ quá đẹp về ngôn ngữ và âm điệu nên tôi muốn lồng trong đó một ý nghĩ rất chủ quan. Ai “bâng khuâng”, ai “ngẩn ngơ”? Thi sĩ ưa nhân cách hóa sự vật nên có thể giải thích chính buổi chiều bâng khuâng, buổi chiều ngẩn ngơ: buổi chiều ngẩn ngơ chính buổi chiều. Giải thích như vậy thì buổi chiều có tâm hồn, buổi chiều nhìn chính mình, nhìn tâm hồn mình. Nhưng giải thích như vậy e thi vị hóa câu thơ nhiều quá. Kẻ “bâng khuâng” và “ngẩn ngơ” là người, là con người nhìn buổi chiều. “Bâng khuâng” và “ngẩn ngơ” như thế sao lại nói “lòng không sao cả”? Tôi cũng biết câu thơ có thể chỉ nói lên một tâm trạng thường tình thôi: lòng không có chuyện gì buồn, nhưng buổi chiều bâng khuâng khiến buồn buồn. Nhưng tôi vẫn muốn tra khảo câu thơ: Lòng ai không sao cả? Ai hiu hiu sẽ buồn? Hai “tôi” hay một? Một “tôi” phơn phớt bên ngoài, một “tôi” dễ lay động bên trong?

Tôi ưa ca hát nên muốn mượn một câu hát để nói thêm về câu thơ. Câu hát của Trịnh Công Sơn mà tôi thường nghêu ngao khi nhớ đến thơ Xuân Diệu:

Lòng thật bình yên mà sao buồn thế,

Giật mình nhìn tôi ngồi hát bao giờ.

Câu hát đầu gợi ý câu thơ thứ hai: lòng thật bình yên mà buồn. Nhưng câu hát thứ hai thì làm rõ ý tôi muốn nói. Ai giật mình? Ai nhìn? Ai nhìn chính tôi? Nói rằng tôi giật mình nhìn tôi thì cũng được thôi. Nhưng tôi nghĩ câu hát có ý nghĩa cao hơn thế. Có hai “tôi” trong đó. Một “tôi” giật mình, nhìn. Một “tôi” đang ngồi hát nghêu ngao bị “tôi” kia bất chợt nhìn. Cái “tôi” ngồi hát đã ngồi đó hát từ bao giờ, có mặt ở đó như từ muôn kiếp trước. Cái “tôi” kia, trong chớp nhoáng, giật mình khám phá ra.

Có lẽ tôi phải mượn chuyện thiền để Xuân Diệu ở đâu đó đừng trách tôi chẻ sợi tóc làm tư. Thiền sư Thoại Nham có thói quen nói chuyện với mình. Ông gọi ông như ta gọi vợ con: “Thoại Nham ơi!”. Rồi ông tự trả lời: “Ơi!”. Thỉnh thoảng lại gọi: “Thoại Nham đấy hả?”. Lại tự trả lời: “Ừ!”. Mái chùa của ông bé như vỏ nghêu, vậy mà thỉnh thoảng ông cứ sợ lạc. Mỗi lần cảm thấy lạc như thế, ông lại gọi: “Thoại Nham!”. Và lại ơi: “Ừ, đây rồi!”. Hai người trả lời nhau chăng, hay là một? Một phơn phớt bên ngoài, một thăm thẳm bên trong?

Kim địa tòng lâm cô nguyệt quang hàm không tức sắc,

Sơn đầu bảo sát quần loan thúy tỏa cổ do kim.

(Chùa thiền nơi đất báu, trăng côi tỏa ánh vàng, không tức sắc,

Cửa Phật ở đầu non, núi cụm trùm màu biếc, cổ như kim).

Trăng soi bóng mình trong nước, vầng trăng trong nước có hay không có? Hai vầng trăng hay một vầng trăng? Màu biếc của núi nay giống xưa, vậy màu biếc đó là một hay hai? Những câu đối của thầy tôi là những bài thơ thiền xinh như con bướm vừa chui ra khỏi kén. Cổ như kim, xưa giống như nay là một cảm hứng lớn trong văn học thiền. “Xưa giống như nay, nay giống như xưa”, là giống cái gì? Có cái gì cứ ở đấy mãi hoài vậy? Mãi hoài như từ thuở mới sinh ra, từ khi núi là núi? Núi màu lục kia cũng có cái “tôi” thăm thẳm của nó chăng? Nếu nó biết nói, chắc thỉnh thoảng trong ngày nó cũng gọi nó đôi lần. “Núi ơi!” Ai thử gọi đi, nó “ơi” cho mà xem. Không chừng nó biết hơn ai hết cái “tôi” thăm thẳm trong tiếng “ơi” mà chúng ta gọi là “khuôn mặt muôn thuở”, là “bản lai diện mục”, là “Phật tính”, là “chân như”, là “không”. Thoại Nham gọi là như thế để đừng lạc mất chính mình. Mỗi lần Thoại Nham thấy mình là hai với Phật tính thì Thoại Nham khổ lắm, mà hễ thấy mình là một với Phật tính thì nhẹ nhàng, vui vẻ, thong dong, bình yên, Niết bàn. Nhưng làm sao Thoại Nham trở thành một với cái bút màu lục nay giống như xưa của ông? Chỉ thế thôi: quên đi, mất đi, bớt đi, vơi đi cái “tôi”, cái danh gọi Thoại Nham hão huyền, bèo bọt, để nghe tiếng “ơi” vọng ra từ chốn rỗng không của muôn đời.

Từ chốn rỗng không… Thầy tôi viết mấy ngàn trang sách chắc cũng chỉ muốn dẫn tôi đến chỗ đó mà thôi, cái chỗ có ông tiều phu thất học nghe một câu kinh mà ngộ đạo: “Ưng vô sở trụ…”. Đừng để tâm đậu vào một chỗ nào cả. Tôi đố ai khởi lên một ý gì mà không có cái “tôi” trong đó. Dù một ý nghĩ không có chữ “tôi”, cái “tôi” vẫn nằm ở trung tâm điểm. “Hôm qua, cô Hồng Nhung hát hay quá” là “tôi” nghe, “tôi” thích, “tôi” thấy hay. Đừng để tâm đậu vào chữ “tôi”, lòng đã bớt xao động rồi, nhưng ông tiều phu Huệ Năng hiểu sâu hơn thế ngay khi nghe câu kinh. Ông hiểu: đừng để tâm đậu vào một ý niệm nào cả. Thường ta nói: Đừng bận tâm thì an vui. Nhưng làm thế nào để đừng “bận tâm”? Đừng suy nghĩ? Có giây phút nào ta ngừng suy nghĩ đâu? Cắt đứt tư tưởng? Thử cắt đứt đi! Ý này dứt thì ý kia nối, mãi mãi không ngừng, dẫn tâm đi lang thang. Cách hay nhất là cứ để cho nó đi, nhưng đừng vướng vào nó, nhìn nó đi, biết nó đi, nó đi đâu mình theo dõi nó, đừng để nó lừa. Thế là mình làm chủ nó. Từ ngày tôi đau mắt, tôi cứ chơi cái trò đó với nó. Tôi đau mắt phải, mỗi ngày phải điểm thuốc hai ba lần, mỗi lần cách nhau mười lăm phút. Rồi thỉnh thoảng con mắt trái cũng đau, lại phải điểm thuốc khác, ba bốn thứ thuốc không được lẫn lộn. Ban đầu, sợ nhầm mắt, tôi phải bịt mắt trái. Nhưng sau tôi nghĩ: Tại sao không nhân dịp này giỡn với tâm mình chơi. Thế là tôi bắt chước Thoại Nham. Tay cầm bình thuốc, mặt ngửa lên trời, tôi gọi: “Mắt phải ơi!” Tôi “ơi!”. Giọt thuốc rơi đúng bóc vào mắt phải. Mỗi ngày tôi vui chơi với Thoại Nham như thế. Nhưng hễ tôi bận rộn một việc gì đấy, soạn bài, xem đá bóng, giận vợ con, là cái giận, cái lo, cái hồi hộp, cái suy tư nó dẫn tôi đi và tôi quên tuốt Thoại Nham thân mến của tôi cho đến khi giật mình nghe giọt thuốc rơi phóc vào mắt trái.

Thầy tôi nghe tôi giảng giải “Ưng vô sở trụ…” như thế này chắc sẽ lắc đầu ngao ngán. Nhưng riêng tôi, mỗi ngày tôi sống hai ba lần cái giây phút đó, lúc tôi cầm bình thuốc, ngửa mặt lên trời, hai ngón tay sẵn sàng ấn vào bình. Lúc đó, tôi biết tôi đang giận, đang hồi hộp, đang lo, đang nghĩ đến đứa con đi chơi khuya chưa về, đang bực mình vì ấm nước vừa sôi tràn lan trên bếp, tôi biết hết, nhưng mặt tôi đã ngửa, tôi nhìn chúng như nhìn mây trôi qua và tôi gọi: “Thoại Nham!”. Rõ ràng tôi nghe tiếng “ơi!” từ trong thăm thẳm của giọt nước rơi vào mắt. Tiếng “ơi!” từ trong rỗng không.

Chắc tôi lại phải mượn chuyện thiền để thưa với thầy tôi rằng tôi càng ngày càng tin chắc, tin rõ, tin như thấy trước mắt cái chỗ rỗng không đó. Chuyện như thế này: Ông sư già Câu Chi có cái thói quen lạ lùng là mỗi khi ai hỏi ông về Phật, ông giơ ngón tay trỏ lên trời, không nói gì cả. “Bạch Sư cụ, chân lý cao nhất mà Phật dạy là gì ạ?”. Giơ ngón tay. “Bạch Sư cụ, Phật với chúng sinh có khác gì nhau không ạ?”. Giơ ngón tay. Chẳng ai hiểu gì cả, nhưng ai cũng làm bộ hiểu, vì một ông thiền sư tăm tiếng như thế chắc chắn nhất cử nhất động ắt phải có ý nghĩa sâu xa. Ông sư già đi đâu, ngồi đâu, cũng có một chú tiểu theo hầu đàng sau. Chú tiểu thấy thầy chỉ cần đưa ngón tay lên trời mà thiên hạ phục sát đất, nên học thầy nhanh lắm, ai hỏi chuyện đạo chú cứ việc đưa ngón tay lên trời. “Chú tiểu ơi, chú sắp thành Phật chưa?”. Giơ ngón tay. “Chú tiểu ơi, Nam mô là gì vậy chú?”. Giơ ngón tay. Chú giơ ngón tay một hồi như thế thành quen, bây giờ đi đứng sau lưng thầy, có ai hỏi thầy chuyện Phật, thầy giơ ngón tay mà trò ở đàng sau cũng giơ ngón tay. Thế thì một hôm, thầy vô tình xoay lưng bỗng thấy trò giơ ngón tay, bèn hỏi trò: “Chú hiểu đạo thật hả?”. Trò thưa: “Dạ thật”. Thầy hỏi: “Phật là gì?”. Trò giơ ngón tay. Thầy chụp ngón tay, sẵn cây dao bên cạnh chặt trọn. Trò đau quá, vừa chạy vừa ré. Thầy bắt lại, hỏi dồn: “Phật là gì?”. Quen thói mất rồi, trò giơ ngón tay. Nhưng ngón tay không có đó nữa. Chú tiểu ngộ.

Khi chú tiểu giơ ngón tay, chú ý thức rằng ngón tay của chú có thật trong thế giới hiện tượng. Mà đúng là có thật chứ! Khi chú tiểu giơ ngón tay đã bị đứt rồi, ngón tay không có trong thế giới đó nữa, nhưng trong tâm chú tiểu, chú thấy rõ ràng ngón tay rỗng không mà chú đang giơ. Trong khoảnh khắc, chú học chữ không, chú học chữ có, và chú dạy cho tôi cái biết từ trong rỗng không. Tôi có thể tưởng tượng ra một rỗng không như thế trong tâm một người ngồi thiền đắc đạo khi vị đó đạt đến mức không để tâm đậu vào một ý niệm gì cả. Chắc tôi sợ ngồi thiền trong kiếp trước nên kiếp này tôi phải mang cái nghiệp đau mắt. Nhưng biết đâu có ngày tôi điểm mắt mà ngộ đạo như ai, có ngày tôi thấy trong giọt thuốc kia mông mênh một cõi trống không trong đó vầng trăng hiện ra trong vắt?

Cái trống rỗng đó, và niềm vui trong đó, đố ai nói được nên lời. Cho nên thầy tôi phải mượn đến thơ:

Tánh lặng đất trời chung một cõi,

Tâm không trăng gió trải muôn phương.

Có lần tôi đưa hai câu đối đó cho vợ tôi đọc. Vợ tôi đùa: Thầy biết rõ anh hơn ai hết. Rồi giải thích: Thầy nói: Nếu tâm anh không trăng gió nguyệt hoa thì tha hồ hạnh phúc. Hay quá! Thầy tôi thấy rõ ruột gan của tôi từ bao giờ vậy? Từ bao giờ thầy là thầy của tôi? Bao nhiêu lần tôi nghe thầy tôi than: Dịch kinh chữ Hán thiệt mệt với chữ “không” và chữ “vô”. Giá như thầy viết: “Vô tâm trăng gió trải muôn phương” thì học trò của thầy thoát khỏi cái oan Thị Kính rồi! Nhưng “vô tâm” làm sao hay bằng “tâm không” để nói cái tâm trong vắt, trên đó không có gì vướng mắc. Trong triết lý thiền, cái tâm trong vắt đó, cái “tâm không” đó, biết hết thảy mọi sự mọi vật, biết đúng đắn sự vật như là sự vật, giống như tấm gương trong đó hiện ra trung thực mọi hình ảnh bởi vì tự mình là rỗng không. Thoại Nham ơi, từ đâu nữa, từ trong rỗng không đấy chứ đâu, thầy tôi đã là thầy tôi tự bao giờ.

Cao Huy Thuần

Thứ Bảy, 15 tháng 8, 2009

NGƯỜI BIẾT ĐỦ LÀ NGƯỜI GIÀU CÓ- Hoàng Quý Toàn


Người Biết Đủ Là Người Giàu Có(Báo Giác Ngộ)

Văn Chủng và Phạm Lãi là hai mưu sĩ đại tài của Việt vương Câu Tiễn. Có thể nói chắc chắn rằng, không có Văn Chủng và Phạm Lãi thì không có sự nghiệp phục quốc vĩ đại của Câu Tiễn.

Khi thất bại ở núi Cối Kê, Câu Tiễn phải cùng vợ con sang làm nô lệ cho Ngô vương Phù Sai, Phạm Lãi đi theo hầu Việt vương, việc trong nước do một tay Văn Chủng lo liệu. Điều đó cho thấy vai trò của Văn Chủng đối với nước Việt quan trọng như thế nào. Văn Chủng đã bí mật gom tất cả bé trai của nước Việt từ 4 – 6 tuổi đưa về một nơi bí mật, nuôi dạy tập trung, đề phòng quân Ngô sát hại. Lớp thiếu sinh quân này chính là nòng cốt của quân đội nước Việt hai mươi năm sau đánh vào kinh đô của nước Ngô và bức tủ Phù Sai. Điều đó cho thấy tầm nhìn chiến lược của Văn Chủng.
Trong khi Câu Tiễn cùng Phạm Lãi nhiều phen gặp nguy khốn suýt bỏ mạng trên đất Ngô thì ở trong nước, Văn Chủng lo lót với quan Thái tể nước Ngô là Bá Hỷ để cứu Câu Tiễn và Phạm Lãi. Sau khi Câu Tiễn và Phạm Lãi được tha về nước, Văn Chủng bày kế làm suy yếu nước Ngô. Chính Văn Chủng đã cống nạp Tây Thi cho Phù Sai để mê hoặc vua nước Ngô. Và với nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành, Tây Thi đã mê hoặc được Phù Sai, khiến ông vua này chìm đắm trong hoan lạc và mất cảnh giác. Sau khi do thám biết Phù Sai say mê tửu sắc, bỏ bê việc triều chính và nước Ngô liên tiếp mất mùa, lòng dân oán thán, Câu Tiễn liền kéo đại binh sang đánh nước Ngô.
Phạm Lãi chỉ huy cánh quân bên phải. Văn Chủng chỉ huy cánh quân bên trái. Câu Tiễn thống lĩnh 6.000 quân tử chiến đi ở giữa, ào ạt tiến đánh quân Ngô. Phù Sai thua luôn ba trận. Các tướng tài như bọn Tào Cô và Tư Môn Sào đều chết trận cả. Phù Sai chạy thẳng về đô thành, đóng chặt cổng thành. Câu Tiễn đắp một cái thành bao vây kinh đô của nước Ngô. Bị bao vây lâu ngày, người nước Ngô khốn quẫn quá. Phù Sai bèn sai Vương Tôn Lạc, mình trần, kéo lê đầu gối sang xin với Câu Tiễn rằng:
- Kẻ bề tôi cô độc là Phù Sai ngày trước đắc tội ở Cối Kê, nhưng không dám trái mệnh, được cùng với đại vương giảng hoà, nay đại vương cất quân sang đánh cô thần, kẻ bề tôi cô độc cũng mong đại vương nghĩ đến việc Cối Kê ngày trước mà xá tội cho.
Câu Tiễn nể tình trước đây Phù Sai đã tha chết cho mình định cho giảng hoà, nhưng Phạm Lãi nói:
- Đại vương ngày đêm lo nghĩ, mưu tính trong hai mươi năm nay sắp thành công mà lại bỏ đi là nghĩa làm sao.
Câu Tiễn không cho hoà nữa. Sứ giả nước Ngô đi lại bảy lần mà Văn Chủng và Phạm Lãi nhất định không nghe, lại thúc quân đánh thành. Nước Ngô không còn sức chống cự nữa, Ngô vương Phù Sai phải tự tử và nước Việt thống trị toàn bộ nước Ngô. Câu Tiễn đại thắng, bày tiệc trên văn đài của nước Ngô, cùng các quan uống rượu nghe nhạc. Các quan trong tiệc đều tươi cười cả, chỉ có Câu Tiễn nét mặt không vui. Phạm Lãi thấy vậy nghĩ thầm rằng: “Đại vương không muốn tính đến công của kẻ hạ thần, thế là mối nghi kỵ đã trông thấy rồi”.
Ngày hôm sau, Phạm Lãi vào cáo từ Câu Tiễn :
- Tôi nghe nói vua bị nhục thì kẻ bề tôi nên chết. Khi trước đại vương bị nhục ở Cối Kê mà tôi không chết là định ẩn nhẫn để báo thù nước Ngô. Nay nước Ngô đã bị diệt rồi, xin đại vương ra ân cho cái thân già yếu này được về nghỉ.
Câu Tiễn khóc mà nói rằng:
- Ta nhờ sức nhà ngươi mà được như thế này, đang nghĩ để đền công, cớ sao nhà ngươi lại nỡ bỏ ta mà đi? Nhà ngươi ở lại thì ta giao quyền chính cho, nếu đi thì vợ con nhà ngươi, ta sẽ giết hết.
Phạm Lãi nói:
- Giết tôi thì hơn, chứ vợ con tôi có tội gì! Thôi thì sống chết cũng tuỳ ý đại vương, tôi chẳng nghĩ gì cả.
Đêm hôm ấy, Phạm Lãi đi một chiếc thuyền nhỏ, lánh xa Câu Tiễn. Hôm sau có người đưa cho Văn Chủng một bức thư nói là thư của Phạm Lãi. Thư viết rằng: “Vua Ngô có nói: Giống thỏ đã hết thì chó săn tất bị mổ, địch quốc đã diệt thì mưu thần cũng chẳng còn, ngài không nhớ hay sao? Vua Việt môi dài mỏ quạ, là người nhẫn tâm, ghét kẻ có công. Cùng ở lúc hoạn nạn thì được, chứ cùng ở lúc an lạc thì không được, nếu ngài không đi, tất có tai vạ”. Văn Chủng xem thư có vẻ âu sầu nhưng vẫn chưa tin lời Phạm Lãi.
Sau đại thắng, Câu Tiễn không ban thưởng công lao diệt Ngô cho ai cả, các quan không ai được một tấc đất nào, lại không muốn gần gũi các cận thần. Các đại thần tìm cách xin từ chức. Văn Chủng nhớ lời Phạm Lãi, cáo ốm không vào chầu. Bọn gian thần nói với Câu Tiễn rằng:
- Văn Chủng tự nghĩ mình công to mà được hưởng ít, có ý oán vọng nên không vào triều.
Hôm sau Câu Tiễn đến thăm Văn Chủng. Văn Chủng vờ đang ốm nặng, gượng dậy nghênh tiếp. Câu Tiễn cởi thanh kiếm ra, bảo Văn Chủng rằng:
- Ta nghe, người chí sĩ không lo cái thân mình chết, mà lo cái đạo mình không hành được. Nhà ngươi có bảy thuật, ta mới thi hành có ba mà đã diệt được nước Ngô, còn thừa bốn thuật, nhà ngươi định dùng làm gì?
Văn Chủng nói:
- Tôi cũng không biết dùng làm gì được.
Câu Tiễn nói:
- Hay nhà ngươi đem bốn thuật ấy mà mưu hộ cho tiền nhân nước Ngô ở dưới âm phủ, phỏng có nên chăng?
Câu Tiễn nói xong, lên xe đi về, bỏ lại thanh kiếm ở chỗ ngồi. Văn Chủng cầm lấy xem thì trên vỏ kiếm có hai chữ “chúc lâu”, tức là thanh kiếm xưa Phù Sai dùng để giết Ngũ Tử Tư. Văn Chủng ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Cổ nhân có câu “ơn to không báo”. Ta không nghe lời Phạm Lãi đến nỗi bị giết, chẳng cũng ngu lắm ư.
Nói xong Văn Chủng liền cầm gươm tự tử.
Lão Tử nói: “Tri túc, tri chỉ” (biết đủ, biết dừng). Đó là hai cái biết khó nhất trên đời này. Chức tước biết thế nào là đủ để dừng lại, của cải biết thế nào là đủ để dừng lại. Bài toán ở đời khó nhất chỉ là hai cái biết đó thôi. Về mưu lược Phạm Lãi và Văn Chủng tài ngang nhau. Nhưng Phạm Lãi hơn Văn Chủng ở chỗ biết đủ biết dừng. Từng theo Câu Tiễn sang nước Ngô làm nô lệ cho Phù Sai bị đối xử như thú vật, cắn răng chịu đựng để đợi ngày báo thù. Và nước Việt đã đánh bại nước Ngô, mối quốc nhục đã được rửa, chí nam nhi thế là đủ rồi. Hai mươi năm rèn quân phục quốc, Phạm Lãi là quân sư của vua nước Việt, về chức tước thế cũng là đủ rồi. Và ở đời khi biết đủ thì phải biết dừng lại. Nếu Phạm Lãi không bỏ đi thì Câu Tiễn phải thưởng công cho Phạm Lãi như thế nào? Đem nửa giang sơn chia cho Phạm Lãi chăng? Chia nửa vương quyền cho Phạm Lãi chăng? Không một ông vua nào có thể làm như thế. Mà không làm như thế thì phải giết đi. Đó là cái chết của Văn Chủng, một người không biết đủ biết dừng.
Từ bỏ triều đình, Phạm Lãi đi về đất Đào, làm một nhà DN. Đây là vùng ngã ba sông, việc lưu thông hàng hoá và buôn bán rất thuận lợi. Phạm Lãi làm nghề buôn tiền ở đây và giàu hơn cả Việt vương Câu Tiễn, được nhân dân tôn phong là Đào Chu Công (ông chủ của đất Đào).
Nhiều doanh nhân ngày nay sau khi gặt hái thành công trên thương trường lại muốn chen chân vào chính trường. Hơn 1/3 các nhà doanh nhân của Trung Quốc muốn ứng cử vào Quốc hội. Các doanh nhân của VN có lẽ cũng nhiều người có ý nguyện đó. Song chính trường và thương trường là hai lĩnh vực khác xa nhau. Trên thương trường quyết định thành bại là ở tài trí kinh doanh. Còn trên chính trường người có tài chưa chắc đã thành công và người kém tài chưa chắc đã thất bại. Lã Bất Vi thời Xuân thu là một nhà DN đại tài, là doanh nhân mà làm đến Tướng quốc, vua còn gọi là Trọng Phụ. Vậy mà cuối cùng phải cay đắng nhận lấy cái chết. Bi kịch của Lã Bất Vi là không tri túc, tri chỉ. Đó phải chăng cũng là bài học cho tất cả chúng ta.

Lang thang một mình trên đồi vắng
Ta tìm gì ? lãng đãng sương trắng rơi ...
Một ngôi sao lẳng lặng ở cuối trời
Lạnh hiu hắt vô tình rơi ...chiếc bóng ...

Hoàng Quý Toàn (Toàn dương)

Thứ Hai, 3 tháng 8, 2009

Bút ký- Căn nhà nhỏ có mẹ của tôi


Bài dự thi Góc nhà bình yên

CĂN NHÀ NHỎ CÓ MẸ CỦA TÔI
Quê tôi, một làng ven sông Bồ thuộc huyện Quảng Điền, Thừa Thiên- Huế. Ở đó có căn nhà nhỏ có mẹ của tôi. Bao năm bôn ba xa nhà xa quê, thay đổi chỗ ở chỗ làm với bao chồng chất lẫn lộn, cái góc nhỏ kia- với tôi vẫn là nỗi nhớ khôn nguôi và cứ mãi thôi thúc bước chân về…
Tuổi nhỏ vắng ba tôi ở với mẹ. Mẹ nuôi tôi trong khổ cực với nghề hàng xáo nhỏ. Tan học chiều, tôi thường ra ngóng mẹ đi mua lúa về ở cây mưng đầu xóm. Tối đến, căn nhà rộn lên tiếng xay giã giần sàng, thường thì tôi thiếp đi khi công việc mẹ chưa xong. Sáng sớm mẹ đã gánh gạo ra chợ, phần lời thường là mấy đồng và đôi ba lon gạo mẹ con đắp đổi qua ngày. Một mình mẹ ngày qua tháng lại vất vả trăm chiều nuôi con chờ chồng ngày đoàn tụ…
Nhọc nhằn gánh hàng xáo nhưng mẹ vẫn cố cho tôi đi học. Mẹ bảo: Con cố học dăm ba chữ để sau này đỡ vất vả, đời mẹ đã không được học hành con phải bù đắp cái phần thiếu hụt kia. Có năm gặp tai ương, một lần đi mua lúa ở nhà mụ Khóa mẹ bị chó cắn. Thuốc men chạy vạy nhưng vết thương cứ tái đi tái lại cả năm mới lành. Chiến tranh tràn tới, làng quê tán tác, cuộc sống ngày càng vất vả trên đôi vai bé nhỏ của mẹ. Ngày đó tôi mới xong bậc tiểu học.
Làng quê không yên, mẹ con tôi bỏ quê lên thành phố. Tôi phải tạm nghỉ học. Nhưng với mẹ không thể thế được. Phải tiếp tục việc học dở dang? Lấy gì để nuôi con ăn học giữa phố thị đông đúc nhiều người ít việc? Một phụ nữ nghèo khó ít học như mẹ có thể làm gì ngoài việc chấp nhận làm người giúp việc ở mướn. Mười năm đằng đẵng nhục nhằn ở đợ nuôi con. Mỗi khi nghĩ về mẹ và ngày tháng cũ tim tôi đau nhói… lòng quặn thắt… nước mắt cứ chực trào ra…Bước đường học vấn của tôi được trả giá bằng sự hy sinh vô bờ bến của mẹ. Tôi vào sư phạm và ra trường ngày đất nước thống nhất.
Ba tôi tập kết trở về. Mẹ con tôi mừng mừng tủi tủi. Nhưng điều ngang trái đã đến với mẹ khi biết ba có vợ con ngoài Bắc. Mẹ lại cắn răng âm thầm chịu đựng. Khổ riêng mình chịu. Mẹ không một lời phàn nàn, trách cứ, lặng thầm chấp nhận. Hai mươi mốt năm một mình nuôi con chờ chồng giờ thành vô vọng. Mấy năm đó mẹ ít nói ít cười…
Chuyện rồi cũng nguôi ngoai, mẹ quyết định về quê nội dựng lại căn nhà nhỏ. Mẹ bảo nhỏ với tôi: “Lỗi chẳng do ai, chỉ là chuyện lịch sử, do chiến tranh xa cách mà ra. Giờ mẹ già rồi, về lo chuyện mồ mả kỵ giỗ, chăm sóc ông nội cho trọn bề dâu trưởng”. Chao ôi, mẹ tôi một đời buồn tủi!
Hình như tôi đã đọc đâu đó một điều giản dị về mẹ: Anh chị lớn bao nhiêu tuổi, làm nên biết bao công trạng nhưng đứng trước mẹ anh chị cũng chỉ là đứa con bé nhỏ như ngày xưa mẹ yêu thương, nâng niu bú mớm dỗ dành. Anh chị biết không? Mẹ tôi năm nay đã cận kề tám mươi, còn tôi đang bước vào lục thập, vậy mà tôi chưa làm được điều gì cho mẹ vui…
Hơn ba mươi năm rồi tôi vẫn chưa kịp về với mẹ, chỉ thưa thớt mấy bữa phép năm. Căn nhà nhỏ nơi quê nhà mẹ vẫn cặm cụi hôm sớm. Đứa con bất hiếu cứ mãi chen chúc lợi danh, bao toan tính bon chen thu vén cho gia đình vợ con, cố tìm nơi chốn yên lành. Mẹ ngày càng luống tuổi.
“Mẹ không còn ở lâu với ông nữa đâu”- ai đó thầm nhắc nhở, thúc giục…
Mỗi ngày đi qua lòng tôi lại bồn chồn lo lắng. Căn nhà nhỏ thời thơ ấu của mẹ hiện về. Những bữa cơm đơn sơ đạm bạc, những hôm mưa dầm gió bấc, những ngày nắng rát gió Lào…mẹ tôi đôi quang gánh hàng xáo lầm lũi tần tảo nuôi con. Giờ đây ốm đau trái gió trở trời ai người chăm sóc, phụng dưỡng. Mẹ ơi, cái ngày con xa mẹ đang gần, Vu Lan sắp tới con có còn cài nụ hồng lên ngực …Câu chuyện ngày trước trong điệu hò xứ Huế càng làm tôi đau đáu chạnh lòng. Chuyện rằng: Có hai vợ chồng nghèo khó ngày mẹ mất họ chỉ lo ma chay qua quýt. Rồi họ cố lên tát cạn biển đông, câu hò ước nguyện trước bàn thờ vong linh mẹ: “…Hò…ơ…hò…Bên ướt mẹ nằm bên ráo con lăn…ơ…Ôi lấy chi đền nghĩa khó khăn…ơ…Thôi thì hai đứa mình lên non xắn đá xây lăng mà phụng thờ…hò…ơ…”
Biết con có làm được điều ấy không, mẹ ơi?

Lê Quang Kết
Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Bảo Lộc
454 Trần Phú, Bảo Lộc, Lâm Đồng
ĐT: 0633 717 123- 0907 615 510
Email: lequang54@gmail.com.vn

Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2009

Bút ký- Mẹ và con gái




Bài dự thi Trò chuyện với con

CON GÁI VÀ MẸ

Nói gì với con gái nhân sinh nhật tuổi 18- mẹ thầm nhủ. Chỉ ít nữa thôi con sẽ bước chân vào giảng đường đại học. Con sẽ tự lo liệu mọi thứ. Dù tin yêu nhưng mẹ vẫn cứ bồn chồn lo nghĩ…Hình như điều đó là thiên chức tuyệt vời của người phụ nữ Việt Thường- của mẹ và sẽ là của con, phải không con?
Hồi mẹ bằng con bây giờ khác lắm. Sự chọn lưa ít hơn và chông gai gập ghềnh cũng ít hơn. Con gái Huế thuở ấy êm đềm - có sóng gió chăng cũng chỉ lặng lẽ âm thầm chịu đựng. Con bây giờ không thế - bản lĩnh và dứt khoát hơn. Đó là điều mẹ sợ. Con gái mẹ không ngại khó khăn thử thách, dám nghĩ dám làm. Ai làm lại không sai? Quan trọng hơn là biết tiếp thu lắng nghe ý kiến người khác- thậm chí đó là các ý kiến trái chiều hay phản biện. Thế là mẹ lo cái nóng nảy thiếu bình tỉnh của con gái mỗi khi ai đó xúc phạm. Hồi học 11, con đã gào lên, cãi tay đôi hùng hổ chỉ vì chuyện bạn Hà chê trách con đối xử thiếu tế nhị trong sinh hoạt. Phải chi êm ái nhẹ nhàng hơn? Con luôn nghĩ mình đúng và tìm cách áp đảo người khác mỗi khi tranh luận?
Bà ngoại dạy mẹ công dung ngôn hạnh. Mẹ nghĩ những điều ấy cũng còn giá trị cho đến bây giờ. Con gái mẹ phải gắng học cho kịp bạn bè, tốt nghiệp đại học loại khá giỏi chính là chữ công của ngày trước chứ sao. Con gái thấy không?- Hoa hậu Mai Phương Thúy có luôn cả tứ đức, đẹp người đẹp nết thành đạt cả tài lẫn sắc mà bao cô gái mơ ước, ngưỡng mộ. Nếu con hiểu đúng thì truyền thống và hiện đại cũng đồng thuận đấy thôi. Có lần con mặc cảm: con thua thiệt vì chỉ cao chưa tới một mét sáu. Mẹ hiểu. Mới đây thôi “chân ngắn” Alex Thủy Trần, cô sinh viên y khoa Đại học Rice, Houston đã đăng quang Miss Vietnam Global- cô chỉ cao một mét năm tám. Có thua thiệt gì đâu…
Thời của mẹ gia đình nghèo lắm, thiếu thốn mọi thứ nhưng giàu tình nghĩa, sẳn sàng chia sẻ đùm bọc khi gặp khó khăn. Bạn bè không tính toán thiệt hơn. Bây giờ các con khác hẳn, thực dụng, tiền trao cháo múc, sòng phẳng, lạnh lùng( mẹ nói quá lời thì xin lỗi)…Hè rồi, có cuộc semina ở một đội hình sinh viên tình nguyện. Câu chuyện tình huống được đặt ra là: “Có hai người quen đến chơi nhà. Một người có học vị cao, kiến thức và nhân cách mẫn tiệp nhưng nghèo và chẳng có quà cáp chi. Một người khác, học hành chẳng tới đâu, chuyên chạy chọt mánh mung nhưng xe cộ xênh xang, vung tiền qua cửa sổ, lì xì gia đình ít tiền… Anh chị đối xử với hai người quen ấy thế nào?”. Nhiều câu trả lời trên văn bản khảo sát được thu lại: Đối xử như nhau và coi trọng người có học vị hơn. Thế nhưng trên thực tế hàng ngày mẹ biết, không phải vậy. Các con sẽ vui thích và quan tâm đến cái người “hào hoa phong nhã” kia hơn. Lạ thật, mẹ cứ nhớ mãi cái câu của cha ông: “ Tiền tài như phấn thổ/ Nghĩa trọng tợ thiên kim”.
Chuyện tình yêu của mẹ ngày ấy- đầy mộng mơ, lãng mạn nhưng chân thành, trong sáng. Ba mẹ yêu nhau có kể chi sang giàu, đẳng cấp. Giờ này con khác. Mẹ lại lo. Tình yêu học trò có còn trong sáng? “50% học trò có tiêu chí chọn người yêu giàu có, 28% thừa nhận sẽ bỏ bê học hành nếu tình yêu không được chấp nhận…”- khảo sát của một tờ báo có uy tín của tuổi trẻ thành phố. Làm sao mẹ yên lòng khi con gái chuẩn bị bước vào cổng trường đại học, sắp về với phố thị đầy cám dỗ và đang tuổi yêu? Mẹ nhớ hồi nhỏ con rất thích truyền thuyết lịch sử: Một lần du thuyền trên Thao giang, Tiên Dung tình cờ gặp Chử Đồng Tử. Cô công chúa ngọc ngà cung son gặp chàng trai nghèo khó không mảnh khố che thân. Như là cơ duyên đất trời, họ đã bền duyên giai ngẫu, mặc cho ngôi cao chín tầng giận dữ, mặc cho quyền uy thế lực, mặc cho chuyện thế thị phi. Tình yêu là tất cả, san lấp mọi thứ trên đời- núi đèo hay biển cả- đồi dốc hay thung sâu- bỏ qua mọi thứ môn đăng hộ đối- vượt lên cái gọi là sang hèn, cao thấp, giàu nghèo…Con biết không, nơi đền Giếng thờ hai cô công chúa Tiên Dung - Ngọc Hoa, ngày nay những đôi lứa yêu nhau thường đến giếng này, cầm tay nhau khấn nguyện chung thủy sắt son đến trọn đời…Mẹ đi hơi xa rồi, ừ thì coi như tản mạn chuyện xưa…nay… thế thôi.
Mẹ cũ lắm và phong kiến quá phải không con gái?

Nguyễn Thị Hồng Điệp
Công ty Scavi Bảo Lộc, 116 Phan Đình Phùng, Tx. Bảo Lộc, Lâm Đồng
ĐT: 0938 949 381
Email: hongdiep1955@yahoo.com.vn

Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2009

Bút ký- Ba sai rồi...



BÀI DỰ THI TRÒ CHUYỆN VỚI CON

BA SAI RỒI…

Trồng giàn su dành tiền sinh con- đó là chuyện những năm quá khó khăn của ba mẹ. Và thế tên con được gọi Su Su - để nhớ những ngày vất vả. Con sinh đúng vào 30 tháng 4, mẹ cười gượng bảo: Khỏi mừng sinh nhật Su vì ngày kỷ niệm của cả nước. Nói vậy thôi, chứ nhà mình có bao giờ tổ chức sinh nhật ai đâu.

Gập ghềnh bước đường học vấn con đã vượt qua để hoàn thành bậc phổ thông. Giờ thì ba hiểu. Nhà mình thiếu thốn mọi bề. Cái gì Su cũng thua em kém bạn- ai mà không tủi? Hình như điều đó làm con ít nói ít cười, cố chịu đựng, có khi dửng dưng trước những lời chê trách. Bao giờ cũng thế, các khoản đóng góp ở trường mình phải cuối cùng mới nộp. Cô thầy thúc hối. Ba chạy vạy, lần lữa. Người chịu đòn tinh thần lại là Su Su. Mỗi lúc lắng lòng nghĩ về ngày tháng cũ, ba rơm rớm…Khổ cho con tôi…

Mẹ bạo bệnh năm Su học lớp 8. Ba xoay xở chẳng tới đâu, phải cầu cứu nội ngoại mới tạm ổn. Nhưng rồi hai mẹ con phải tạm về quê mấy năm. Gia đình một cảnh hai quê, việc học của con ít nhiều ảnh hưởng. Sau này ba biết hồi ngoài Sịa (thị trấn thuộc huyện Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế) con phải phụ việc làm bún với cậu Hào để có thêm tiền trang trải cuộc sống. Vậy mà thư Su viết chỉ cốt để ba yên lòng: -Mẹ và con ngoài này đầy đủ, ba cho Ti Ti đi học thêm cho kịp với bạn bè… Ôi, con trai tôi nhỏ tuổi đã biết lo nghĩ đến em gái.

Gia đình sum vầy, mẹ có việc làm- đỡ hơn đôi chút, sai lầm của ba bắt đầu từ đây. Su vốn mê thơ yêu văn, thích các môn khoa học xã hội và nhân văn, có năng khiếu ngoại ngữ. Nhiều điển tích điển cố trong truyện Kiều, những câu từ tiếng Anh khó ba nhiều lần hỏi - con đã trả lời đầy tự tin, chủ động và xác tín. Thế mà cả ba mẹ đều muốn Su phải học ban A- khoa học tự nhiên. Con đã cố lên làm vui lòng ba mẹ nhưng chẳng thú vị gì. Ba năm miệt mài với toán - lý - hóa, Su ngày càng đuối sức và chẳng tiến bộ hơn chút nào. Điều gì đến đã phải đến, Su Su của chúng tôi thi trượt vào đại học…

Những ngày tiếp đó bao lo âu đè nặng lên vai Su. Mọi thứ như sụp đỗ. Nhìn con ủ rũ, thẩn thờ, biếng ăn lòng ba đau như cắt. Hình như những cô cậu ít nói thường có những dằn xé nội tâm ghê gớm. Sao mà yên lòng được? Công cha nghĩa mẹ ơn thầy, bạn bè và bao điều khác nữa, ai cũng nói nó giỏi giang chăm chỉ mà sao thế? Ký ức tuổi thơ con- ba nhớ, có lần mẹ hỏi:- Lớn lên con thích nghề gì? Su Su của ba đã hớn hở trả lời:- Con sẽ tập tễnh viết văn và gởi báo; nói về ba mẹ, nói về em Ti Ti, nói về nhà mình nghèo nhưng ấm cúng, biết đùm bọc chia sẻ; nói về “ đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”; nói về những con người “ sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”*… Thế mà ba mẹ có cho con thực hiện mơ ước của mình đâu!?

Ba sai rồi…Ba muốn áp đặt con phải là bác sĩ, kỹ sư, hay là nhà kinh tế hay là…để khoe với mọi người: Con tôi đang ở công ty này kia, lương cao thưởng lớn; con tôi trúng đậm đợt hot bất động sản này; con tôi vừa tậu căn hộ chung cư cao cấp… Ba sợ con phải theo nghề viết văn làm báo nghèo khó, ba sợ con chỉ loay hoay với ngòi bút chân thật ngay thẳng sẽ thiếu hụt cả một đời. Ba quên một điều trọng đại là không ai có quyền cướp đi ước mơ của người khác. Bài học văn chương thuở trước ba vội quên: Cụ Đồ Chiều- nhà thơ mù Nam bộ, một con người mù làm được ba công việc mà bao người sáng mắt ngày ấy khó ai theo kịp. Đó là dạy học- dạy đạo làm người, bốc thuốc chữa bệnh giúp người nghèo khổ và làm thơ yêu nước buổi đầu chống Pháp. Tuyên ngôn nghệ thuật của cụ đã hơn 100 năm vẫn sừng sững treo trên lầu cao: “ Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” .

Lê Quang Kết

------------------------------------------------------------------------------------------------------------

* Thơ Nguyễn Khoa Điềm, Huy Cận

Lê Quang Kết, giáo viên Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Bảo Lộc

454 Trần Phú, Thị xã Bảo Lộc, Lâm Đồng

ĐT: 0633 717 123 – 0907 615 510

Email: lequang54@gmail.com

Chủ Nhật, 28 tháng 6, 2009

MỘT NGƯỜI VIỆT GIỐNG ÔNG OBAMA


Một người Việt giống ông Obama

26/06/2009 9:06
Ông Nguyễn Đức Vân - Ảnh: Dương Trần
(TNTS) Trong chuyến đi Tây Nguyên vừa qua, chúng tôi vừa phát hiện có thêm một người giống đương kim Tổng thống Mỹ Barack Obama. Đó là một nhà sư Việt Nam, 36 tuổi, hiện sống tại Bảo Lộc, Lâm Đồng. Ông là Nguyễn Đức Vân.

Khi ông Barack Obama lên nhậm chức vào tháng 1 năm nay, thế giới mạng bỗng xôn xao về trường hợp một công dân Indonesia có dung mạo trông giống Tổng thống Mỹ mới đắc cử Barack Obama. Cuộc sống của người thanh niên này chẳng mấy chốc bị xáo trộn bởi sự trùng hợp kỳ lạ này khi phải bất đắc dĩ tham gia vào nhiều sô diễn với mục đích chính là khai thác triệt để bề ngoài của anh.

Nay thì có lẽ, giới truyền thông sẽ thêm một lần nữa phải “kinh ngạc” nếu biết tại Việt Nam cũng có một “phiên bản” Obama. Và biết đâu, ai dám chắc rằng rồi đây cuộc sống thầm lặng của nhà sư Nguyễn Đức Vân sẽ không bị khuấy động?

Những nét tương đồng

“Khi Obama đắc cử, nhiều người quen đã gọi điện cho tôi, bảo sao thầy giống Obama quá vậy!”, nhà sư Nguyễn Đức Vân kể. Và chính bản thân người được xem là giống Obama cũng lấy làm ngạc nhiên về điều kỳ lạ này. “Những lần tôi bước vào quán cơm chay, một số người quen ồ lên thích thú khi phát hiện tôi có nét giống Obama. Sau đó, có người còn vui vẻ trả tiền cơm cho tôi”, nhà sư kể tiếp.

Ban đầu thì hơi bỡ ngỡ, nhưng rồi Nguyễn Đức Vân cũng quen dần. Đến khi nghe người bạn vong niên của mình là thi sĩ Phạm Thiên Thư “phán”: “Nét cười của thầy giống hệt Obama”, Vân mới thôi “ngơ ngác”. Và Vân cũng dần thích nghi với “vai” người giống Obama bất đắc dĩ.

So sánh thì quả là khập khiễng, nhưng quan sát, chúng tôi thấy giữa ông Obama và Nguyễn Đức Vân quả là có những nét tương đồng về ngoại hình. Cả hai người đều có nét rắn rỏi, cao ráo, đều có mái tóc xoăn và đen, mắt nâu. Obama tiếng là gốc Phi nhưng lai giữa mẹ da trắng và cha da đen nên ông có làn da nâu. Nguyễn Đức Vân cũng có làn da hao hao với người đứng đầu nước Mỹ nhờ được thừa hưởng gien của người mẹ lai Pháp (ông ngoại Vân là người Pháp). Những lúc “khẩu khí”, Obama thật và Nguyễn Đức Vân đều phô hàm răng trắng với cái miệng rộng, ánh nhìn như hút hồn người đối diện.

Và, cũng thật kỳ lạ khi hai người ở hai nửa bán cầu lại có một vài điểm tương đồng đặc biệt khác. Obama hơn Nguyễn Đức Vân đúng một giáp, nghĩa là hai người đều cầm tinh con Trâu! Cả hai đều có khả năng sáng tác. Trong khi Obama có hai đầu sách bán rất chạy, từng làm biên tập viên, sau đó là Chủ nhiệm, cho tờ Havard Law Review, Nguyễn Đức Vân thì làm thơ và viết nhạc. Anh đã xuất bản một tập thơ và hai đĩa nhạc, ấn bản mới nhất là CD ca nhạc Màu yêu thương do Saigon Vafaco sản xuất.

Về hoạt động xã hội, Obama nổi tiếng là người kiên định với lập trường bảo vệ môi trường, từng bỏ phiếu ủng hộ Đạo luật Chính sách Năng lượng năm 2005. Nguyễn Đức Vân cũng là một nhà môi trường và từng nhận được giải thưởng xanh của Tạp chí The Guide trong khuôn khổ Giải The Guide Award năm 2008 nhằm vinh danh công lao của anh đã tự tay trồng cả đồi sim rộng 5.000m2 ở Bảo Lộc, Lâm Đồng trong suốt hơn 6 năm qua.

Nguyễn Đức Vân là ai?

Người giống Obama chẳng phải quá xa lạ với những người yêu thơ. Nguyễn Đức Vân đã xuất bản tập thơ Người đẹp (NXB Trẻ - năm 2000), hai CD ca nhạc với những tác phẩm ngợi ca thiên nhiên và tình yêu cuộc sống. Anh cũng là người được cho là lập dị khi có thói quen phát ngôn mạnh bạo và trông rất “đời”, khác với con người hành giả của mình. Dù vậy, với những người quen của anh, Vân lúc nào cũng là Vân, vừa giản dị đời thường, vừa hành Thiền để tịnh tâm trì chí thực hiện những công việc có ý nghĩa của đời mình.

Giờ đây, Vân sẽ phải đối diện với sự “nổi tiếng” được dự báo trước của mình. Và anh không cho rằng điều đó không quá trầm trọng, đôi khi lại mang đến những thú vị bất ngờ nữa là đằng khác. “Những lần ra đường, thi thoảng về TP.HCM chơi, ai đó chợt thốt lên “Sao giống Obama quá”, tôi cũng cảm thấy ngồ ngộ, vui vui. Đôi khi, những điều như vậy mang đến cho mình cơ hội được giao tiếp với cộng đồng nhiều hơn”, Nguyễn Đức Vân tâm sự.

Cũng cần nói thêm, vào năm Nguyễn Đức Vân chào đời (1973), Obama đang theo học trường Punahou ở Honolulu, bang Hawaii. Ở tuổi của Nguyễn Đức Vân bây giờ, tức 12 năm trước đây, Obama là Nghị sĩ trong Thượng viện Tiểu bang Illinois (1997- 2004). Giờ đây, Barack Obama là người quyền lực nhất nước Mỹ. Còn Nguyễn Đức Vân là một hành giả sống lặng lẽ trên khu đồi nhỏ ở Lâm Đồng với hoạt động không mệt mỏi vì môi trường.



Ảnh: AFP
* Nhiếp ảnh gia Ilham Anas, 34 tuổi, người Indonesia, bất ngờ nổi tiếng nhờ có khuôn mặt gần giống Tổng thống Mỹ Barack Obama. Kém ông Obama 13 tuổi, hiện chàng thanh niên này nổi lên như một “sao” trên các kênh truyền hình Indonesia. Được biết, Ilham Anas sinh ra và lớn lên ở Bandung, phía tây đảo Java. Anh bắt đầu được chú ý sau khi ông Obama giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tháng 11.2008. Sau khi ông Obama tuyên thệ nhậm chức tổng thống vào ngày 20.1.2009, thì Ilham Anas cũng bắt đầu nổi tiếng. Vào dịp này, anh xuất hiện lần đầu tiên trong chương trình Not Four Eyes trên đài truyền hình Indonesia. Ilham Anas kiếm khá bộn tiền từ ngoại hình của mình với nhiều hợp đồng từ các đài truyền hình và các công ty quảng cáo. Tuy nhiên cái được lớn nhất khi giống với ông Obama của Anas là về tinh thần. Anh thổ lộ: “Tôi thấy giống Obama là một may mắn. Trước đây tôi thường nhìn vào kính và có sự tự ti về khuôn mặt của mình”.



Ảnh: AFP
* Michael Lamar, năm nay 44 tuổi, người ở Whitehall thuộc bang Pennsylvania, Mỹ vốn là một nhân viên ngân hàng thất nghiệp, do ngoại hình giống ông Obama nên đã được Ngân hàng Garanti ở Thổ Nhĩ Kỳ mời đóng quảng cáo trong vai Tổng thống đương nhiệm Mỹ. Ngoài ra, Michael Lamar cũng được một vài công ty khác mời đóng vai ông Obama trong một số clip quảng cáo. Tuy vinh hạnh được đóng vai Tổng thống Mỹ, nhưng Michael Lamar cũng phải chịu nhiều vất vả. Ông thổ lộ: “Ngoài việc phải thường xuyên đi “công du” xa gia đình, là việc phải “chịu trận” chụp hình trong nhiều giờ. Tôi phải cười cho đến lúc cứng cả hàm”. Lamar thường xuất hiện cùng với Sheena Harrell, một diễn giả đến từ Columbia, bang Maryland, người đóng thế Đệ nhất phu nhân Michelle Obama.

Trân Văn Thưởng