Thứ Sáu, 26 tháng 11, 2010

Tạp bút- Trần văn Thưởng

THIÊN NHIÊN CUỒNG NỘ
Trần Văn Thưởng

Tôi còn nhớ, mười mấy năm về trước, trong giờ mỹ học ở phần nói về phạm trù Cái Đẹp, giáo sư của chúng tôi cho cả lớp xem phiên bản bức tranh của một danh họa vẽ cảnh cuồng phong bão tố gây hiểm họa chết chóc tang thương, rồi hỏi: “Theo các bạn, bức tranh này có đẹp không?”. Đa số mọi người trả lời là “không” với lý do nó dấy lên trong lòng khán giả nỗi sợ hãi, cảm giác khủng khiếp thê lương. Thế thì đẹp cái nỗi gì! Chỉ có một số người trả lời là “đẹp”. Đó là vẻ đẹp của một tác phẩm nghệ thuật phản chiếu ảnh tượng hãi hùng của thiên nhiên.

Bài học kinh điển về Cái Đẹp năm nào bỗng chốc sống lại trong tôi như một vệt mờ của trí nhớ qua chuyến dã ngoại tại vùng biển Phan Thiết mới đây. Chúng tôi vượt hai trăm cây số từ Sài Gòn về đây từ lời kêu cứu của một người yêu Đồi Cát Trắng đang xót xa khi thấy thắng cảnh quý giá của Bình Thuận bị người ta hủy hoại. “Bạn ra đây với tôi đi, rồi hãy làm những gì có thể với sứ mệnh của bạn, để may ra còn kịp cứu một cảnh quan kỳ thú trước khi mọi thứ trở nên quá muộn”.

Khi chúng tôi đặt chân đến thành phố biển cực Nam Trung bộ cũng là lúc cơn bão đổ bộ vào bờ. Thật ra nó đến từ đêm hôm trước. Người dân địa phương ở phường Đức Long, nơi có gia đình một người bà con mà tôi ghé thăm vài giờ trước khi ra Đồi Cát Trắng, đã cảm thấy nó qua tiếng gầm gào dữ dội như con cá kình đang cơn thịnh nộ. Nó hùng dũng hướng mũi vào đất liền và đến chặng cuối của cuộc hành quân với cường lực kinh hoàng đã giật sập nhiều ngôi nhà xây trên cát. Để khi chúng tôi đến nhà bà chị họ, những người bị nạn đang tá túc ở đó ngửa mặt thất thần: “Biển ăn mất đất liền rồi!”. Theo lời bà chị họ, ở khu Đức Long này trong vòng vài năm qua, biển đã xâm thực hơn một trăm mét bờ cát và đang phả hơi lạnh sát sau lưng dãy nhà giáp biển, nơi những gia đình như chị đang đối diện từng ngày với nguy cơ không chốn dung thân. Hình ảnh cuối cùng neo vào lòng tôi trước khi rời vạn chài nghèo này là đôi mắt ngơ ngác của em bé đang dõi về ngôi nhà chỏng chơ trên cát của mình vừa bị đánh sập đêm qua, và ngay dưới chân cột nhà là tiếng ì ầm cuồng nộ của thủy thần.

Thành phố du lịch biển nổi tiếng đã đón chúng tôi trở lại đây sau hai năm với những hình ảnh như vậy đấy! Trên đường chạy xe ngang qua Mũi Né – Hòn Rơm ở khúc cua giáp ranh với Hòa Thắng, suốt dọc đoạn đường kéo dài liên tục khoảng 4km, một bên là những đồi núi cát, một bên là bãi cát trắng ven biển đều phơi mình lở lói trước những giàn máy hút, ống thổi cát. Đây đó là những dãy nhà tạm cho công nhân khai thác cũng là nơi tập trung cát đen, loại cát nằm dưới lớp cát trắng, thứ từ đó được dùng để sản xuất titan. Hãi hùng nhất là những hố cát sâu liền liền bên biển gợi cho người ta cảm giác biển đang xâm thực đất liền, đang liếm lưỡi hái tử thần vào lằn ranh an toàn cuối cùng như cách nó đã thị hiện ở những nơi tương tự như Đức Long mà chúng tôi có dịp nhìn thấy.

Nếu những ai từng yêu vùng đất này hẳn cũng đều biết rằng vẻ quyến rũ độc đáo của nó chính là sự pha trộn tuyệt vời giữa ba loại địa hình cảnh quan biển rộng sông dài, đồi núi cát - cả trắng cả hồng - kỳ ảo và những khu rừng lá thấp với đồng thảo nguyên bao la. Những người từng có một tình yêu như thế, trong đó có tôi, sẽ phải đau đớn dường nào khi biết rằng thế hài hòa chân kiềng đó đang bị phá vỡ từng ngày. Ngay cả Đồi Cát Trắng ở Hòa Thắng, nơi từng được cho là còn giữ vẻ đẹp hoang sơ so với đồi cát vàng ở Mũi Né, giờ cũng bị khai thác du lịch quá mức với cảnh những chiếc xe địa hình giày xéo lên đó một cách vô tội vạ. Nó khác xa với cách đối xử của con người với những đồi cát tương tự ở châu Mỹ, nơi được bảo vệ như một báu vật với những quy định nghiêm ngặt về loại phương tiện đi ngang qua đó. Và với tốc độ khai thác kinh khủng như hiện nay, dù là lấy cát làm titan hay làm vật liệu xây dựng, chỉ vài năm nữa thôi, cung đường biển thơ mộng này sẽ chỉ còn lại lời than: đâu rồi “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”. Ngay giờ đây, tôi đã nhìn thấy viễn cảnh đó, và có gì đó như là cảm giác “sao xót xa như rụng bàn tay!” Và khi mà nguồn lợi kinh tế còn treo lơ lửng trước nỗi ham muốn của con người, hậu họa khôn lường từ sự trừng phạt của thiên nhiên ắt sẽ đến nhanh thôi.

Dù vậy, may sao, tôi và em - một cô phóng viên trẻ chuyên viết về du lịch mới bước vào nghề, cũng còn chút an ủi khi chúng tôi rong ruổi trên cung đường biển hoang sơ nằm phía sau Đồi Cát Trắng. Để thấy rằng, hai chúng tôi với chung sứ mệnh đi tìm những kỳ quan trong thiên nhiên, rồi chia sẻ với người khác cũng còn rung động đến tận đáy lòng trước vẻ đẹp của thế giới thực tại chứ không phải vẻ đẹp cuồng nộ trong tác phẩm nghệ thuật.

----------------------------------------

Thứ Bảy, 23 tháng 10, 2010

Huế một thuở...trong tôi

Tùy bút

HUẾ MỘT THUỞ …TRONG TÔI

Lê Quang Kết

Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc- dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú. Chỉ bài thơ ngắn lục ngôn “Quê hương” của chàng Đỗ được phổ (nhạc sĩ quá cố Giáp văn Thạch) mà bao người Việt tha hương nằm lòng ngâm ngợi. Cha ông xưa đã khéo lời khi gọi - quê hương nghĩa nặng tình sâu - là máu thịt, là mẹ cha, mái nhà vỗ về ôm ấp những đứa con xa quay về… Có cậu bé quê hồn nhiên hỏi: -Quê hương là gì hở mẹ? Người nhẹ nhàng âu yếm vuốt tóc khẽ khàng: Nuôi các con khôn lớn thành người. Tôi là người con Huế tha hương, bôn ba bao chồng chất rồi định cư với B’Lao mênh mang sương khói.Vậy mà tôi đã gắn bó hai mươi lăm năm nơi xứ này, B’Lao hương trà ngan ngát B’Lao lao xao buồn vương và bao điều khác giữa bộn bề lo toan cuộc sống. Hai mươi lăm năm xa Huế, xa người thân bạn bè ngày tháng cũ, tôi như nợ nần- người ta bảo thế: Huế đất ly tán, xa để mà nhớ chứ khó gần để thương…

Ngày đó, cơm đùm gạo bới lên dinh trọ học, cậu học trò quê- tôi lần đầu biết hương vị và không khí cà phê phố thị.Chẳng biết thói quen uống cà phê của nhiều người có từ bao giờ? Lạ thật, phải từ thời Pháp thuộc người Việt mới biết tới cà phê, vậy mà giờ hình như nó đang là “văn hóa ẩm” trên đất nước này. Ngồi bên trời B’Lao tôi nhớ về cà phê thuở ấy. Thời sinh viên Huế lũ chúng tôi thường nhật với cà phê chị Giang Tổng hội, thiếu tiền ký sổ với thẻ sinh viên. Bao giờ chị Giang vẫn cười vui - Ừa thiếu, có tiền gởi sớm cho chị nghe. Dáng chị nhỏ nhắn, tất bật mất hút giữa các chàng sinh viên trẻ nghèo nghịch ngợm đáng yêu. Những ngày lang thang, những ván cờ tướng với ly cà phê, những buổi lên giảng đường bài vở, những mỏi mệt bởi chiến tranh và lo âu thắc thỏm ngày không xa đến lượt mình phải vào lính. Nhiều bạn bè thân quen từ quân trường ra chưa kịp nhận lon đã về bên kia chín suối…Nhạc sĩ tài hoa đất Huế TCS. đã viết về thân phận lớp trẻ- chủ đề cho giai điệu và ca từ năm tháng ấy: “Sống ở đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời”. Nuôi dưỡng tình yêu? Làm cách nào? Ngày ấy thế hệ chúng tôi dường như dửng dưng hay vô cảm bất lực trước câu hỏi lớn tình yêu và thân phận.

Tình yêu bất khả tư nghì. Yêu hạnh phúc đan xen khổ đau, yêu giả mà thật - ảo thực tình yêu. Tôi yêu em ngày ấy có sá chi- như trang giấy học trò không tì vết, trong trắng lạ thường. Tôi học Trịnh cố giữ lấy tình yêu, vun vén dưỡng nuôi. Nhưng nào có cứu chuộc được đâu. Những biến động, những đổi thay vỡ vụn đường đời tôi mất em từ ấy…

Những ngày chủ nhật đông Huế túi rủng rỉnh Thành, Thuận, Hiệp, Đức, Xuân và tôi lại thích xuống cà phê Thọ. Quán nằm sát sông cuối chợ Đông Ba có bến xe buýt và các chuyến đò xuôi Ngã Ba Sình. Bao giờ cũng thế, phải tìm chỗ bởi khách cà phê đã đông nghịt từ sáng sớm. Bếp than đỏ rực lửa tự bao giờ, một chảo nước sôi sùng sục để hâm nóng ly tách trước khi pha chế cà phê. Ông chủ Thọ cẩn trọng tay cầm chiếc gắp được thiết kế đặc trưng- chỉ một công việc gắp ly ra khỏi chảo- từng ly trống không còn bốc khói được vớt ra chúc ngược sạch nước. Cà phê nóng cái ly nóng ấm làm khách nghe ấm lòng như quên đi cái se lạnh mùa đông. Ngồi cà phê Thọ nghe tiếng sông Hương với nhiều thanh âm ồn ả đời thường - chủ đò quay máy xình xịch chuẩn bị xuất bến- chuyến xe tới bà con ào xuống kịp buổi chợ sáng- tiếng hỏi chào lao xao chợ cá, tiếng kỳ kèo trả giá eo sèo…Từ góc khuất này tôi nhìn sông Hương qua lăng kính khác, u tối buồn thương hơn. Một cô gái trên sông tình cờ tôi gặp- cô Sương đò chị Lặn. Tuổi thanh xuân nàng Sương hương sắc phải lênh đênh trên sông đón khách, một lần về thăm quê bị trúng đạn ở chân, Sương thành thương tật, chẳng ai đoái hoài. Sống sông nước phải tìm cách mưu sinh trên sông nước, cô mua chiếc ghe nhỏ chèo ghe từ đò này sang đò khác bán các thứ cho khách đêm. Người thân lần lượt chiến tranh cướp mất, Sương tứ cố vô thân, chiếc ghe là căn lều -nhà của cô gái trên sông. Bữa lời bữa lỗ do vụng về khi đứng lên ngồi xuống…Vậy mà ông trời chẳng tha, trận lụt lớn năm kia đã cuốn trôi Sương và cả chiếc ghe che mưa nắng. Người vạn đò chỉ cứu được cô còn “ghe cần câu” mất tăm. Mất sạch mọi thứ dành dụm cả một đời. Sương ơi, từ nơi này lòng tôi quặn thắt khi nghĩ về em, rơm rớm nước mắt. Sương giờ nơi nao? Đã kịp lên bờ định cư hay vẫn còn bám mạn đò kiếm ăn trên sông nước?

Bạn bè của một thời giờ ly tán. Thuận bạo bệnh mất từ bên kia Thái Bình Dương xa xôi, hôm nhận tin đem tro cốt về nước tôi chẳng thể về. Thành bảo: - Nhạt nhòa vì chẳng còn ai nhận ra hay thấu hiểu thời ấy của tụi mình. Năm ngoái Đức ra đi do chứng đau tim nghiệt ngã, xa vợ con tha phương chẳng lời trăn trối. Từ B’Lao ngóng về Huế tôi cũng chỉ hờ hững điện thoại thăm hỏi mà nghe lòng nặng trĩu …Xuân mất do bệnh nan y từ những năm đói thông tin tôi chẳng hay, chú Hiệp nghe giờ chân đau chỉ nằm một chỗ tôi cũng chỉ biết thế thôi. Sáu đứa còn ba, bao năm rồi chưa có ngày đoàn tụ…Thành ơi! Có nhớ những ngày tháng cũ với Huế một thuở? Tháng ngày với Thuận lênh đênh Sài Gòn trong thiếu thốn, mình đã cao hứng: Tao nghèo tiền nhưng sẽ tập tễnh viết, viết về tụi mình, viết về một thời, viết tuổi hai mươi ba mươi và ngày tháng Huế… Món nợ tâm cảm- nợ ân tình một thời với bạn bè với Huế, cứ lần lần lữa lữa, chỉ biết vay mà chưa trả - biết rồi có trả được không?

Ngày đất nước hòa bình chúng tôi tình nguyện lên núi dạy chữ cho bà con dân tộc ít người Tà Ôi, Pa Cô, Pa Hi, Vân Kiều …Nam Đông và A Lưới. Những chàng trai cô gái đôi mươi háo hức lên đường. Phương tiện duy nhất thời ấy là đôi chân, đi gùi gạo, đi cửa hàng Bốt Đỏ, đi xóa mù chữ, đi họp kể cả đi tấp giạt như chữ của Hà Trung đều lội bộ. Mỗi đứa có tên mới gắn với địa danh giảng dạy: Bồng Hồng Quảng, Trung Hồng Bắc, Thành Hồng Thủy phía xa tận Tà Rụt còn tôi Hồng Thái…Tờ báo tường của tháng chính trị nơi bản doanh đơn vị quân đội - TĐ 6, giọng Chiến A Ngo đủng đỉnh điểm báo -bài tùy bút mơ ước A Lưới về một tương lai gần của Tuấn Hồng Thượng: “…Khu phố Thái Thượng Quảng điện sáng rực một góc trời, tiếng động cơ như xé của Boeing 747 lên xuống làm cho phi trường quốc tế nơi thung lũng này rộn rã, đêm A Lưới như ngày hội hoa đăng…”. Đã ba mươi lăm năm từ độ A Lưới, chẳng hiểu ước mơ xưa tới được bến bờ nào- hở Tuấn?

Mối tình đẹp Thìn-Thương của miền núi ngày đó kết thúc bằng lễ cưới núi khá bất ngờ đầy thú vị. Khách mời băng rừng lội suối cả buổi mới tới nơi- xã Nhâm cũ. Chàng Việt đầu đàn rồi Thẩm, Tùy thông báo: Chú rễ cả tháng nay đêm nào cũng vác súng săn tận rừng sâu, cố cho bằng được một đặc sản núi- may mà hôm qua hạ được chú hoẵng tơ…Và thế hôm nay tiệc cưới có hương vị núi. Mọi người khen thịt hoẵng thơm ngon hả hê khoái khẩu. Cuối cùng mới vỡ ra là thịt chó, thuở ấy người Huế mấy ai đụng “mộc tồn” bao giờ. Mấy chị la toáng hoảng lên - cha sinh mẹ đẻ giờ mới đụng cầy tơ, mà lạ ghê…chó kể ra cũng ngon đó chứ… Ác nghiệt thay! Khổ lụy thay! Thương - Cô vợ dịu hiền của Thìn tiệc cưới năm xưa…thoắt gãy cành thiên hương. Thìn giờ ra sao? Có nhớ ngày tháng rã rời ở Huế - chiếc xe đạp rách dựng ở góc trường Việt Hương bị đứa bất lương cuỗm mất. Thìn nói trong thổn thức ngậm ngùi: - Mình mất hết mọi thứ rồi mất thêm chiếc xe tàn có nghĩa lý gì đâu…

Tình đầu vuột mất tôi cố quên. Cõi lòng nghe rỗng không, có lúc tôi đã nghĩ đến một người- nói ra giờ chẳng sao, ai hiểu hay không cũng mặc. Khổng Tử hay từ Kinh thi nhỉ? “Lục thập nhi nhĩ thuận”, Bồng và tôi đang bước vào tuổi ấy - khi người ta tới 60 thì đạt tới mức hoàn hảo -tri hành kiến văn và kinh nghiệm cuộc sống, không còn chướng tai gai mắt vì lý giải được căn nguyên của mọi vấn đề diễn ra chung quanh….Phải không chị Bồng? Những ngày A Lưới ấy tôi thường cười vui nhưng khi gặp Bồng lòng ngổn ngang lóng ngóng- dù lỡ kêu chị Bồng!? Nhớ hôm trễ chuyến xe từ Nam Giao bộ về ngang qua Cầu Mới trời vừa hửng sáng, Bồng mặc bộ đồ lính do Ty giáo dục cấp đặc biệt đối với giáo viên miền núi. Dáng đi, giọng nói, nụ cười, đi bên Bồng nhìn Bồng tôi nghe êm ái -một chút bâng khuâng ngập ngừng muốn nói, thế nào rồi thôi và những lúc gặp sau đó tôi chẳng nên lời- cứ lặng thầm. Lạ lùng, tình yêu chưa lần hò hẹn, chẳng phút cầm tay chứ nói chi chuyện nụ hôn trao gởi. Chị Bồng có còn nhớ hay không? Cũng từ bấy đến giờ tôi chưa lần gặp lại Bồng chỉ nghe tiếng qua điện thoại điều được điều mất mà toàn những lời trách móc nghe nặng nề chẳng vui- chi mà đến thế. Nếu diện kiến, tôi sẽ ngọng nghịu viết thành thơ “Hành Tình Yêu” - “ Ta yêu rồi mà em có hay”…

Tôi yêu Hàm Nghi - ngôi trường một thời cắp sách. Trường tôi khiêm tốn hơn so với Quốc Học hay Đồng Khánh và cũng chỉ tồn tại đúng 20 năm( 1955-1975). Nghe rằng giờ đang có một Hàm Nghi mới để tiếp nối chỉ dừng ở bậc Trung học cơ sở. Lũ chúng tôi đã có những ngày vui bên mái trường này, nhiều con đường Thành Nội gót mòn chân- đó là những buổi trốn học những hôm la cà thơ thẩn. Những biến động chiến cuộc và nỗi riêng gia đình có lúc tôi định nghỉ học. Cuối cùng chật vật bài vở tôi cũng vượt qua vũ môn hai kỳ tú tài như thi sĩ Nguyên Sa “thơ hóa” dặn dò “ Muốn làm người yêu thì phải đỗ tú tài”. Những thầy cô Hàm Nghi ngày ấy - đang trên quê nhà hay xa tận trời tây- còn hay đã khuất suốt một đời con tri ân- biết nói mấy cho vừa- ơn thầy dạy dỗ con chưa đáp đền. Năm rồi về Sài Gòn dự hội trường Hàm Nghi gặp bạn bè mừng mừng tủi tủi - Thọ có thơ hay trên báo, Khánh khấm khá làm chủ tiệm vàng, Bích mở công ty, Thạch viên chức an nhàn, Triết bao năm rồi vẫn như ngày xưa ấy, Minh bún nụ cười tươi của một thời trai trẻ…Tôi như muốn ôm tất cả. Chao ôi! Ra về hứa lòng không hề rơi nước mắt nhưng đứa nào cũng xao xuyến bùi ngùi.

Xưa nay Huế đẹp và thơ có vạn vạn trang sách và ngàn ngàn tác giả tụng ca với bao ngôn từ diễm lệ. Tôi là kẻ bất tài vô tướng bỏ Huế mà đi, loay hoay bạc tóc chẳng làm nên công cán gì. Hồi ức ngày cũ tôi nghe lòng thổn thức, nhớ Huế đến quay quắt. Nỗi nhớ quê nhà chập chờn mộng mị. Tiên thi Lý Bạch từ gần một nghìn năm trăm năm trước đã nói hộ tiếng lòng những kẻ tha hương: “Đầu giường ánh trăng rọi/ Mặt đất như phủ sương/ Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương- Xúc cảm đêm trăng”( Sàng tiền minh nguyệt quang/ Nghi thị địa thượng sương/ Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương - Tĩnh dạ tư ). Giữa đất trời huyền hoặc hơi sương, ngẩng nhìn ánh trăng vằng vặc chiếu sáng khắp sân người, hồn ta mơ về quê xưa, thầm lặng cúi đầu thổn thức- nơi đó cũng có một bóng trăng này. Những đêm B’Lao trăng sáng và sương giăng, cảnh vắng lặng một mình dạo bước-cảm xúc bất chợt nao nao đến xót dạ, những lúc như thế tôi muốn tìm về những mảnh vụn ký ức, của cố quận, của sông xưa, núi cũ, quê nhà, tình yêu, bạn bè…Và tôi gọi thầm trong tiềm thức : Huế ơi…một thuở… nay biết đâu mà tìm…

-------------------------------------------------------------Lê Quang Kết- Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Bảo Lộc

20 Nguyễn Thái Bình Tp. Bảo Lộc

lequang54@gmail.com

Chủ Nhật, 22 tháng 8, 2010

K' Sumư - Lê Quang Kết

TRẠI SÁNG TÁC BẢO LỘC- THÁNG 8/2010
Truyện ngắn
K’ Sumư
Lê Quang Kết

K’ Sumư là tên của em, nghe hơi lạ tai - đọc lên như vỏ ngữ âm người Nhật. Sumư là chàng trai bản địa xứ này. Kể cũng lạ. Họ của bà con chỉ quan tâm đến giống đực hay cái. Đàn ông thì K’ còn phụ nữ là Ka. Người thiểu số miền núi vốn hiền hòa chất phác. Tất nhiên tiếp xúc và sống lâu với cộng đồng, bà con có ít nhiều thay đổi- họ hiểu đời hơn và cũng biết thiệt thà thường thua thiệt do nhiều lần vấp ngã giữa dòng đời lắm kẻ ranh khôn. Sumư là cậu trai trẻ vẫn giữ nguyên bản chất tốt đẹp của người dân tộc miền núi. Tôi tin và đoan chắc như thế.

Lần về tuyển sinh ở buôn Sôven, chúng tôi đã nghe già làng kể chuyện Sumư. Nhà em nghèo lắm, ba mất sớm. Sumư là anh lớn còn hai em gái nhỏ, mẹ cặm cụi ngày ngày lên nương phát -cốt - đốt - trỉa nuôi Sumư và các em lớn khôn. Làm sao mà học hành được khi cái ăn chưa đủ no? Sumư học xong bậc trung học cơ sở đã phải nghỉ học phụ mẹ chuyện rẫy lúa củ mì. Nhân có chỉ tiêu cử tuyển buôn đã chọn em vào học trường chuyên nghiệp. Giọng già làng K’Brẻo chậm rãi chắc nịch:

- Nó hiền lành, tốt bụng hung. Mình gởi lên trường cho các thầy, nó phải học cái chữ cái nghề về làm đẹp làng buôn. Mình kể chuyện Sumư hiền lành, chân chất không tham tiền của để mọi người hiểu nó: Cách đây mấy năm nó nhặt được một túi xách có nhiều tiền và cả vàng nữa. Nó đến báo tin cho mình hay, mình vui mừng lắm. Những ngày sau đó Sumư đứng ngồi ra vô không yên, em lặn lội dò hỏi, cuối cùng cũng tìm ra người mất - một người buôn bán dưới xuôi lên. Sumư lại cất công đi gặp cho bằng được khổ chủ giao trả đúng đủ cái túi tiền vàng nhặt được. Nghe bảo rằng bà ấy mừng lắm, bà ta hậu tạ và hứa giúp đỡ Sumư ăn học nhưng em một mực chối từ…

- Chúng tôi yên lòng với một cậu học trò như thế. Giọng một ai đó cất lên.

Mùa tựu trường năm ấy hoa dã quỳ nở vàng cả một cung đường. Từ sáng sớm mẹ đã chuẩn bị bữa cơm tiễn đưa Sumư với lời chúc da mềm chân cứng, ước mong con cố học thêm nhiều cái chữ giỏi cái nghề mai này về buôn đỡ đần cho mẹ cho em. Trẻ già trai gái buôn Sôven ào ra đầu con suối, những cái vẫy tay, những lời chúc nhớ thương như thôi thúc Sumư từ giờ phải cố lên không thể phụ lòng bao người trông đợi.

Băng qua con suối nhỏ, Sumư nghe lòng ấm lên khi em nhìn xuống tay trái mình có chiếc vòng màu vàng tối. Hồi đêm cô gái buôn bên đã hẹn Sumư ra vạt rừng cuối buôn nói lời chia tay. Họ e thẹn, bồn chồn, ngập ngừng nhưng cuối cùng cô bạn gái Ka Sabe vốn kiệm lời cũng đã thốt nên.

- Sabe chúc Sumư đến với lớp với trường với các thầy cô yên lành. Gắng sức chăm lo học hành để theo kịp bạn bầu. Sumư nhớ rằng nơi buôn làng xa xôi này có người đang ngày ngày đêm đêm nhớ mong trông đợi.

- Cái bụng Sumư xưa nay Sabe hiểu lắm, làm sao mà quên được làng buôn, làm sao mà quên được Sabe hiền hòa bé bỏng?

Sumư hồi hộp lúng túng đeo lên cổ Sabe những chuổi hạt cườm lóng lánh sắc màu còn Sabe nhẹ nhàng xoay ấn chiếc vòng mã nảo vào tay trái Sumư- họ trao nhau kỷ vật thay cho lời ước hẹn ngày hội ngộ không xa. Tình đầu bao giờ cũng thế, đẹp lắm lạ lắm. Tình yêu đầu đời có bao điều để nói: hồn nhiên, vô tư, ngại ngần, trắng trong. Họ đã lớn lên bên nhau nơi buôn này. Ngày nào cũng gặp mặt nhưng chỉ trao nhau ánh mắt chứ không ai dám nói chi chuyện yêu đương. Bây chừ chia tay mới bật ra thành tiếng nói thành lời…
***
Khu nội trú trường chuyên nghiệp khang trang dang rộng vòng tay đón Sumư, phòng ở có sáu bạn tất cả. Lúc đầu e ngại, dè chừng; dần dà họ cũng quen thân. Năm bạn người Kinh chỉ duy nhất Sumư là người thiểu số. Mỗi người mỗi hoàn cảnh, chẳng ai giống ai- anh chàng Hoan người Ninh Sơn gia đình cũng nghèo như Sumư. Ba anh chàng còn lại, Phú thuộc diện gia đình khá giả. Thời ấy chưa xóa hẳn bao cấp, bếp ăn tập thể phục vụ hai bữa trưa chiều, còn ăn sáng tự túc. Phú thì khỏi bàn, sáng nào cũng bánh mì, cà phê, nhiều khi sang trọng hơn tô phở nghi ngút khói thơm. Ăn mặc Phú cũng bảnh bao hơn bạn bè, sơ mi quần Tây may cửa hiệu đắt tiền. Điểm đặc biệt- đó là Phú hội đủ hai trong ba: đạp- đồng- đài, chiếc xe đạp luôn sạch và bóng loáng, chiếc đồng hồ đeo tay thời thượng đang là mơ ước sở hữu của bao người khu ký túc. Còn chiếc đài thật ra cũng đã lỗi thời nên Phú “trung gia” chẳng màng.

Sumư biết mình nghèo nên lặng lẽ tìm niềm vui khác. Ăn sáng chủ yếu của Sumư là khoai lang mang từ nhà lên, thường thì chỉ nhai sống cho đỡ đói và phải đợi đến thứ bảy chủ nhật mới có điều kiện nhặt củi nướng khoai. Niềm vui của Sumư là kho sách của thư viện trường. Năm đầu tiên ở trường Sumư học các bộ môn văn hóa bổ sung kiến thức. Em say sưa đọc sách văn học. Lần đầu Sumư biết có nhà thơ lấy bút danh họ Chế của người Chăm viết tập “Điêu tàn” năm mới 16 tuổi, ông Hàn ông Vũ chết trẻ nhưng đã để lại cho đời những áng thơ văn bất hủ- treo mãi tận lầu cao. Và Sumư biết rằng các dân tộc Tây Nguyên của mình có tới hàng trăm bộ sử thi đồ sộ- nghệ nhân nói và hát tới cả tháng mới dứt. Văn học quả là kỳ lạ, thiên hình vạn trạng đủ chuyện hỉ nộ ái ố sầu bi. Văn học dạy yêu thương, đưa con người vươn tới giá trị cao đẹp chân thiện mỹ. Trang thơ trang văn thấm đẫm tình đời tình người giúp Sumư sống tử tế với bạn bè và mọi người không kể chi Kinh Thượng, miền ngược miền xuôi, phố thị đồng bằng hay miền núi xa xôi…

Sumư nghĩ bụng dặn lòng cố lên vươn lên học hành rèn luyện theo chúng kịp bạn -nghèo sạch rách thơm. Người dân tộc mình xưa nay có tiếng thiệt thà chân chất, sống hiền hòa giản dị không đua đòi chạy theo những cám dỗ vật chất. Cũng có đôi khi Sumư chạnh lòng: Sao gia đình khổ thế? Sao mẹ mình cực thế? Cả buôn chẳng ai có nổi chiếc xe đạp hay chiếc đồng hồ coi giờ ngày năm tháng!? Những ý nghĩ thoáng qua rồi bay đi nhẹ nhàng trong lòng Sumư. Ấy mà, thế mà, vậy mà có giây phút một ý đồ đen tối đến với Sumư! Chẳng biết từ đâu, ma dắt lối quỷ đưa đường hay sao? Chiều hôm đó Sumư đã thực hiện một hành vi đồi bại, một việc làm xấu xa, nhơ nhuốc. Một khái niệm không có trong kho ngôn từ người dân tộc bản địa, người núi xứ này chỉ biết xin- cho chứ không có chữ ăn cắp, ăn trộm, gian lận hay cướp giật…

- Sao mình lại thế, tham lam hám lợi thế, hay là mang trả lại chỗ cũ, hay là nói thật lòng rồi xin lỗi Phú, hay là tâm sự với Hoan để hỏi ý kiến việc này. Sumư nói với lòng mình.

- Lỡ rồi, trót rồi, thôi kệ. Em tự an ủi.

Tối hôm đó Sumư không chợp mắt, thao thức với bao giằng xé trong lòng. Hồi đó mình nhặt tiền vàng còn mang trả lại, người ta hậu hĩ do lòng tốt trung thực mang trả mình cũng nhẹ tênh chối từ; giờ này mình lại hư đốn tồi tệ thế sao. Sumư thiếp đi trong tâm thế bất an, ăn năn, hối hận..

Tỉnh giấc đã nghe tiếng ồn ào, cãi cọ trong phòng. Phú nói chuyện tao mất đồng hồ, Hoan bảo tìm lại cho kỹ, đi chơi có quên đâu không, khoan báo lên Ban quản lý ký túc…Cả phòng nháo lên chỉ Sumư là im lặng, cái im lặng của bao điều bão tố đang vò nát tâm can…
***
Việc điều tra khám xét được ban quản lý ký túc xá tiến hành. Sáu chiếc hòm đồ đạt của cá nhân được mở. Cả phòng nín thở, chẳng ai nghĩ Sumư chính là tội phạm nhưng chiếc đồng hồ đã được lôi ra từ góc khuất- hòm người học sinh dân tộc ít người duy nhất của phòng. Hoan há hốc kinh ngạc, người mà mình tin yêu, người mà mình đinh chắc chữ người ( không có chữ con) lại là kẻ trộm cắp.
Sumư nhìn Hoan lưng tròng và chạy lại ôm chằm Phú, những dòng nước mắt nhỏ ra - khóc không thành tiếng. Chẳng ai ngờ, chẳng ai hiểu cho Sưmư. Người ta đặt trọn niềm tin và khi sự thật phơi bày, mọi thứ dễ dàng nhanh chóng đỗ vở. Không thể khác hơn- từ yêu thương bỗng nhiên thành ghét bỏ, từ người tốt bụng bỗng thành kẻ bất lương, từ cậu học trò tử tế thành đứa hư hỏng bỏ đi…tất cả chỉ vì chiếc đồng hồ chết tiệt vô cảm kia…

Hình như hồi đó một số người có trách nhiệm về vụ việc chiếc đồng hồ mất cũng vô cảm, họ quyết định sẽ thông báo vào giờ chào cờ sáng thứ hai - toàn trường phải biết để có tác dụng giáo dục răn đe mọi người. Chỉ một mình Sumư là nặng nề, xấu hổ không dám nhìn mặt ai. Chiếu chủ nhật buồn, mọi thứ quen thuộc giờ trở nên lạ hoắc; chiếc giường,căn phòng và cảnh vật chung quanh khu ký túc đối với Sumư chẳng còn có ý nghĩa, tất cả trống không, đổ vở. Em lững thững trên “ Hoàng Hoa lộ”- con đường vốn đẹp nhất nơi mái trường này cũng trở nên xấu xí, ngăn cách. Cõi lòng rỗng không. Sumư chậm bước nhưng giật mình khi nghe bước chân ai phía trước, em quay rẽ nhanh lối khác, sợ phải gặp. Chào hỏi thế nào đây? Nói thế nào đây với bạn bè? Bây chừ chỉ có thể là mình và chính mình…

Tối chủ nhật lại càng buồn hơn, thông báo cuộc họp định kỳ của khu nội trú về hoạt động sinh hoạt trong tháng. Thường nhật Sumư là người hăng hái hớn hở nhưng tối nay biết ăn làm sao nói làm sao. Em lặng lẽ trở về phòng thu xếp mọi thứ, người có thể gặp chỉ có thể là Hoan.

- Hoan ơi, mình đành bỏ lớp, bỏ trường… bỏ bạn bè thầy cô… để trở về với làng buôn…nương rẫy thôi Hoan à…Mình về gặp mẹ, hai em, gặp già làng K’ Brẻo, gặp Ka Sabe để giải bày… ăn năn… thú lỗi… mong mọi người rộng lòng tha thứ…Mình xấu hổ lắm không thể đi trọn con đường học hành như niềm mong chờ kỳ vọng của người làng buôn mình…Mình xấu hổ hung…Hoan ơi, còn ít khoai lang dưới gầm giường sáng lên lớp Hoan cố ăn cho đỡ đói, mùa đông rét lạnh lắm nghe Hoan…Sumư nói giọng như tiếng nấc đứt quãng.

- Sumư đừng đi, mình hiểu Sumư, bạn là người tốt, mình hiểu Sumư…Giọng Hoan cầu cứu.

Nhưng vô ích, không còn kịp nữa và cũng không ngăn nổi; bước chân Sumư dứt khoát và càng lúc càng xa dần chỉ còn chấm nhỏ trên con đường mòn dẫn về buôn Sôven, Sumư lầm lũi trong bóng trăng núi chập chờn ẩn hiện…
***
Câu chuyện đã mười lăm năm về cậu học trò Sumư của tôi. Ngày ấy tôi đã dửng dưng, bất lực vì chẳng giúp gì cho em, chẳng có một lời minh oan cho em, lạnh lùng đứng ngoài cuộc. Chính tôi là người vô cảm. Giờ ngồi đây mỗi lần nhớ chuyện chiếc đồng hồ bị đánh cắp tôi nghe lòng nhói lên, Sumư giờ đang làm gì ở đâu có còn nhớ về một thuở nông nổi, một thời khốn khó nơi mái trường xưa…
_____________________________________________________________

Trại sáng tác Bảo Lộc- Tháng 8/2010
Lê Quang Kết, 20 Nguyễn Thái Bình- Tp. Bảo Lộc
ĐT: 0633 717 123 – 0907 615 510
Email : lequang54@gmail.com
lequangket54@yahoo.com.vn

Thứ Năm, 19 tháng 8, 2010

Đa phu - Nguyễn Quang Lập

Nguyễn Quang Lập - Đa phu

Nguyễn Quang Lập
Theo blog Nguyễn Quang Lập

Năm 1996 một hôm đọc bài bài báo Lùn lùn nhưng vẫn vui tươi của thằng Đạt, nó kể mấy cặp vợ chồng lùn lấy nhau rất hạnh phúc, mình hỏi nó thật không hay là mày bịa đó? Nó nhăn răng cười, nói anh làm báo già đời rồi còn hỏi tui câu nớ.

Mình nói công nhận mày bốc phét tài. Nó nói cũng có hai ba cặp, nhưng chuyện không hay ho chi, tui bịa ra cả. Mình nói mày cứ đưa tao đi đến đó, biết đâu tao lại tìm được chuyện hay thì sao. Nó nói có một cặp vợ chồng thiệt hay, tui chưa viết, anh có muốn tui đưa đi coi. Mình ok liền.

Nó chở mình về Thị trấn Gio Linh, rẽ vào một quán cắt tóc. Một anh lùn tịt, chỉ chừng 8 tấc đang cắt tóc cho khách. Anh đứng trên cái bục cao 4 tấc hình vành khuyên, đi lại cắt tóc cho khách, nói lia xia, toàn chuyện thơ phú. Anh nói Nguyễn Trãi mần như ri, tui mần như ri. Tú Xương mần như ri, tui mần như ri. Hồ Xuân Hương mần như ri, tui mần như ri… toàn những bài thơ nhại lại những bài thơ nổi tiếng, khách hàng thích lắm xuýt xoa khen hay hè hay hè!

Thằng Đạt giới thiệu đây là anh Kiện, còn đây là nhà văn Nguyễn Quang Lập, nổi tiếng lắm đó. Anh Kiện nhìn mình cười, nói ai chớ Nguyễn Quang Lập thì biết rồi, Mùa hạ cay đắng. Mình hỏi anh xem kịch đó rồi à, anh nói coi rồi, hai ba lần, đoàn ông Xuân Đàm diễn, lạ chi.

Hoá ra tên tuổi văn nghệ sĩ trong tỉnh anh biết sạch. Thằng Đạt nói vợ anh Kiện đẹp lắm, cao mét bảy. Mình trợn mắt, anh cười nói chi mà lạ hè, tình yêu chỉ tính dài ngắn không tính cao thấp, đúng không hè.

Mình cười nói đúng đúng. Anh nói Giang Nam mần như ri: xưa yêu quê hương vì có chim có bướm/ có những ngày trốn học bị đòn roi, tui mần như ri: xưa chúng mình yêu nhau vì rờ chim vọc bướm/ có những ngày lẹo chắc bị đòn roi. Mình cười phì, nói anh lấy vợ đẹp vì tài thơ phải không. Anh nói đúng rồi, thời buổi ni mồi thơ mà câu được gái hơi bị hiếm, nhưng tui câu được đó, gái sộp hẳn hoi, rứa có tài không.

Buổi trưa mình hẹn anh Kiện đi uống bia, anh nói về nhà tui uống rượu, bữa ni có nhà văn uống cái đã, tiền bạc kiếm sau. Nhà anh Kiện ba gian nhà ngói, nền gạch hoa, toilet gạch men sáng bóng, bệ xí bệt, vòi tắm hoa sen… những thứ mà dân ở đây chưa ai quen dùng. Hồi đó mình vào khách sạn, không biết dùng cái bồn tắm ra sao thì nhà anh đã có cái bồn tắm lớn, ngạc nhiên quá trời. Anh nói tại con vợ tui thích, chớ mình ở quê dùng mâý thứ ni phức tạp lắm. Lắm khi hỏng hóc không biết hỏi ai.

Thằng Đạt nói chắc chị bồng anh vô bồn tắm giải quyết vấn đề phải không? Anh cười hè hè, nói rứa đó rứa đó. Vợ tui ngược lắm, thích mần trong bồn tắm đầy nước, sục sục soạc soạc mới hay. Vừa lúc chị vợ anh đi xe máy chở hai thằng con về. Chị cao đúng mét bảy, trắng trẻo, không xinh nhưng có duyên. Hai thằng con không đứa nào lùn, đứa 4 tuổi, đứa 7 tuổi, đứa 7 tuổi còn cao hơn cả anh.

Anh nói Lan ơi, có nhà văn Quang Lập, nhà thơ Tiến Đạt đến chơi. Chị nói rứa à rứa à, vội vã chạy vào. Tưởng chị bắt tay mình, nhưng không, chị bế xốc nách anh Kiện lên, tự nhiên như không, hôn chụt chụt mấy cái liền, nói chồng tui giỏi hè, mời cả nhà văn nhà thơ đến chơi.

Chị nhanh nhẹn bày rượu, rang lạc, nướng mực cho ba anh em nhậu, rồi ra ngồi cùng. Chị bế anh Kiện đặt lên đùi, ve vuốt chân tay anh, nói duyên số tụi tui răng mà may khiếp, trời cho tụi tui lấy nhau, rồi hôn anh đánh chụt, nói nựng yêu nắm mừ yêu nắm mừ.

Mình hỏi anh chị gặp nhau khi nào, sao yêu nhau dữ dội vậy? Anh cười hè hè, nói vợ tui mê tui tha dép luôn, khóc đứng khóc ngồi đòi lấy tui cho được đó. Chị cười ré cú anh cái, nói điêu. Rồi nói mô có, tui hay ra sông tắm đêm, anh Kiện lặn giỏi lắm, toàn rúc vô háng tui, ngứa quá chịu không nổi, he he he…

Thằng Đạt nói chị lấy anh, ba mạ bà con chòm xóm không nói chi à. Chị nói ba tui cầm roi đuổi tui chạy khắp làng. Mạ tui nói mồm thằng Kiện vói không tới háng mi, mi lấy hắn làm răng. Tui nói không vói tới thì tui nhấc anh lên, mạ lo chi rứa hè!

Chị nói cười như không, nói đuổi đánh không được, ba mạ tui chấp nhận, nhưng mạ tui kêu vô buồng hỏi, nói mi nói thiệt đi, mi đã kiểm tra chim cò hắn chưa, lỡ bằng đầu đũa thì tan đời con ơi. Tui nói mạ hay chưa tề, yêu nhau là vì rung động trái tim, ai lại kiểm tra mấy thứ đó. Mạ tui chửi oang làng chuyển xóm, nói rung động cái mả cha mi, trái tim cái cố tổ mi, ngu lắm!

Chị cười he he he, nói tức cười, sau đêm tân hôn mấy đứa bạn gái xúm lại hỏi răng rồi răng rồi, bằng chừng mô bằng chừng mô. Rồi chị ôm bụng cười rũ. Anh nói hoá ra đàn bà mồm nói con tim, bụng mơ con cặc. Chị sầm mặt, nói anh nói chi nói lại em nghe? Anh cười bẽn lẽn nói anh xin lỗi, anh nói đùa mà. Chị lại hôn anh đánh chụt nói nựng yêu nắm mừ, yêu nắm mừ.

Mấy tháng liền sau đó đi đâu mình cũng kể chuyện vợ chồng anh Kiện, coi như một mẫu tình yêu hiếm hoi, không có cô gái nào yêu chồng như chị Lan cả. Thằng Đạt ngồi nghe chỉ tủm tỉm cười không nói gì. Một hôm không biết vì chuyện gì, mình lại nhắc đến vợ chồng anh Kiện, chị Lan. Thằng Đạt nói anh ngu lắm, mình hỏi răng, nó nói ngu chớ răng, của anh Kiện rồi chỉ bằng đầu đũa thôi, tui sờ rồi. Mình nói bằng cái gì mà người ta có con, lại thương yêu nhau là được. Thằng Đạt cười phì nói anh ngu toàn diện vững chắc luôn. Mình tức, nói mày ngu thì có. Thằng Đạt ôm lấy mình hôn đánh chụt, giả giọng chị Lan nói nựng ngu nắm mừ ngu nắm mừ.

* * *

Chuyện anh Kiện chị Lan rồi cũng quên, mình lo chuyển cả nhà ra Hà Nội cũng không để ý nữa. Thỉnh thoảng thằng Đạt gọi điện, nói anh đi thăm bà Lan với tui không. Mình nói không, tao bận. Nhưng thằng Đạt không chịu, kè cho được lên Hướng Hoá với nó. Thằng Đạt nói anh sắp đi rồi nên tui mới cho anh biết một sự thật hào hùng, he he. Mình nói hai con bà Lan không phải con ông Kiện chớ gì. Nó nói è he, chừng đó nhằm nho chi.

Gần đến Thị Trấn Hướng Hoá chừng một cây thì thằng Đạt rẽ trái cho xe chạy vòng vèo đường đất chừng vài cây rồi lao thẳng vào sân một nhà sàn mái ngói vách gỗ gọn gàng xinh xắn, nằm sát rừng cà phê mít. Chị Lan xuất hiện ở cửa, cười cái rất tươi rồi nói vô đây vô đây. Mình rỉ tai thằng Đạt nói chuyện gì giống chuyện tình báo vậy mày. Nó cười khịt khịt, nói è he, nhiều chuyện còn hay hung. Chị Lan tươi cười nói anh Lập không nhớ chứ hồi học ở Huế em vô nhà anh rồi đó, em đi theo con Oanh. Hoá ra mình gọi bằng chị là trật, cô Lan này còn nhỏ hơn mình bốn tuổi. Lan cười cười nói nói, nhắc vợ chồng thằng Thịnh hàng xóm của mình, nói anh Thịnh ngày xưa học giỏi hung, cô Trần Thuỳ Mai chấm luận văn cho 11 điểm. Mình trợn mắt, hoá ra quen nhau cả.

Lan học trước thằng Đạt hai năm, lứa thằng Thịnh, tức Nguyễn Thế Thịnh, giờ đang làm trưởng chi nhánh miền Trung báo Thanh niên. Lan yêu thằng Tín con một ông to ở Huế. Thằng Tín học đến lớp 9 thì bỏ, suốt ngày chỉ có 3 việc: rượu chè, đua xe và chim gái, không học hành gì cả.

Một đêm thằng Tín ấn Lan vào gốc cây ngay sát hàng rào sân trường múc đến múc đại, chẳng may bị ông bảo vệ chụp được. Thằng Tín chạy thoát, còn lại Lan đứng trơ, quần bò chật lại hoảng hốt cập rập, kéo mãi không lên, chạy cũng không được. Bảo vệ nói kéo quần lên về ban giám hiệu với tui. Lan đứng trương mắt nhìn, còn vén áo lên, nói con có cái ni, chú muốn làm chi thì làm, đừng méc với nhà trường. Bảo vệ trơn mắt chỉ tay, quát cha tổ mi có đậy lại không. Lan khóc rống lên chú ơi là chú ơi… đã hở ra rồi đậy làm răng đậy mần chi, đây nì đây nì…. chú ơi!

Bảo vệ nghiêm giọng nói cô kéo quần lên đi, khoe gì lại khoe thứ đó, con ni không biết xấu hổ là chi à bay. Lan kéo mãi không được, ông nói cha tổ mi tụt ra thì mau rứa, rồi giúp cô kéo quần lên, lập tức cô giữ chặt tay ông, vừa khóc vừa hô hoán, nói vơ làng… chú bảo vệ hiếp tui đây nời!

Chuyện ầm ĩ cả trường, chi bộ ông bảo vệ họp kiểm điểm, dọa đuổi việc ông. Thế cùng ông tụt quần, hoá ra ông bị bom phạt mất cả hạ bộ, cái háng có một vệt sẹo to đùng. Ông nói thưa chi bộ, giờ mô tui cũng đảng viên ưu tú. Lan bị đuổi học, ông bảo vệ mừng húm, nói may nhờ đế quốc Mỹ cắt cu tui, không thì gay go hung.

Bị đuổi học đã xấu hổ lại con có chửa hai tháng với thằng Tín, Lan đành dùng mẹo đi tắm, lùa mặt anh Kiện vào háng rồi cưới, làng xóm ồn ào dị nghị cô cũng mặc kệ. Anh Kiện thì sướng như bắt được vàng, nói ai nói chi kệ cha họ, chỉ cần hai đứa mình chung tình là được rồi.

Mình hỏi Lan anh Kiện có biết hai thằng cu là không phải con anh không, cô nói không. Thằng Đạt nói nhưng anh Kiện biết anh không làm ăn chi được mà, răng anh tin. Lan cười nói mần được chớ, có điều như con nít lõm bõm trong ao thôi, rứa là được rồi he he he.

Mình định hỏi đứa thứ hai là con ai thì thằng Tín phóng cái xe u-óat về, đỗ xịch trước cửa, Lan vội a ra nói chồng em đây nì, chồng thiệt của em đây nì. Lan ôm lấy thằng Tín hôn chùn chụt nói đi lâu rứa, nhớ chi nhớ rứa mừ. Thằng Tín hôn Lan một cái rồi bắt tay mình nói Lập à, mới lên à, cứ làm như quen biết nhau rồi.

Thằng Tín bày bia rượu, uống ba bốn ly mới biết nó làm ở đội thuế đặc nhiệm kiểm soát mấy cái cửa khẩu của tỉnh. Nó có vợ con ở Huế, làm cái nhà này để mỗi khi nó lên đây công tác lại rủ Lan lên sống chung năm bữa nửa tháng. Lan hành nghề buôn hàng lô Lao Bảo- Đông Hà, bỏ nhà đi bao lâu cũng chẳng ai nghi.

Lan quì sau lưng thằng Tín, hót cổ nó, nói vợ chồng tụi em vất vả lắm, lâu lâu mới được chung tình, rồi hôn thằng Tính chùn chụt nói nựng tội nắm mừ, tội nắm mừ. Thằng Tín nói chuyện tình tụi tui đủ cho ông Lập viết văn cả đời, không phải đi thực tế. Lan nói e cả chục cuốn tiểu thuyết còn dư. Thằng Tín nói nhiều chuyện chảy nước mắt ông ạ. Lan thở hắt ra, nói anh đừng nói nữa em khóc chừ đó. Mình hỏi thằng Tín cả hai thằng cu là con ông cả à. Nó gật đầu thở dài, nói tôi phải biếu không thằng Kiện lùn cả hai đứa, đau thế. Lan hôn thằng Tín chùn chụt nói nựng tội nắm mừ, tội nắm mừ.

Ai không biết thằng Tín một thời đầu trộm đuôi cướp, mớí gặp thì nể nó lắm. Nó ăn nói lịch lãm, thái độ khoan thai, y chang ông lãnh đạo về cơ sở. Nó chạm ly mình, nói nhà văn nhà báo các ông là cần lắm, cần lắm. Chỉ cần các ông không bẻ cong ngòi bút là xã hội được nhờ. Lan nói đúng đo đúng đo, xã hội bây giờ sa đoạ lắm, tởm tởm. Thằng Tín nói tiếc nước mình không có Lép xờ xít tôi, không có Gốc rờ xít ki để họ làm mấy bài vạch mặt bọn quan tham. Lan nói đúng đo đúng đo, quan tham bây gìờ nhiều như dòi, tởm tởm. Thằng Tín nói các ông nhà văn nhà báo phải lên tiếng chứ, nhà trường đem thơ Hồ Xuân Hương ra dạy cho con nít là sai. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ lồn cặc. Lồn cặc là gì? Nó là vấn đề nhơ nhuốc. Lan nói đúng đo đúng đo, Hồ Xuân Hương tởm tởm.

Mình rỉ tai thằng Đạt nói con Lan yêu thằng Tín thật không, thằng Đạt nói không yêu sao đưa hàng qua cửa khẩu dễ dàng được, một tháng hơn tấn hàng về chợ Đông Hà đó. Mình nói mày tăm đâu được mấy người hay thế này, thằng Đạt cười khịt khịt nói è he, còn nhiều chuyện hay hung.

* * *

Cuối năm 1996 mình ra Hà Nội ở cái nhà nhỏ bằng lỗ mũi phố Lò Sũ. Thằng Đạt kéo một đoàn bốn năm thằng nhà báo trẻ, bây giờ là nhà báo đại ca cả rồi, thằng Sơn, thằng Thi, thằng Dục… tấp vào nhà mình ăn nhậu, cãi nhau, thơ phú tùm lum.

Mình hỏi thằng Đạt tiền đâu mà ăn chơi nhảy múa ghê thế. Thằng Đạt cười khịt khịt, nói gái cho. Mình nói phải con Lan không. Đạt nói không, thằng Tín vào tù rồi, tiền đâu nữa mà cho. Mình hỏi sao bị tù, thằng Đạt nói thằng Tín bảo kê một lô hàng 100 con rim qua cửa khẩu, có người tố, lập tức nó bị tóm. Mình nói ba thằng Tín đâu rồi, Thằng Đạt cười khịt khịt, nói è he đương chức nỏ ăn ai, về hưu mần chi tốt.

Mình hỏi bây giờ con Lan ra sao. Thằng Đạt nói thì lại về bày ao ra cho cu Kiện lội lõm bõm chơ răng. Mình cười nói mày có vẻ thạo con Lan gớm nhỉ! Nó cườì khịt khịt, nói anh nghi chi tui tội rứa hè. Mình nói chà, thôi đi, tao còn lạ gì. Thằng Đạt cười khịt khịt, nói tui nói nhỏ anh nghe, con ni no hair, no hair… Nó nói tui theo con ni thời sinh viên, thọc tay vào thấy trơn lít, kéo quần ra coi, thấy trắng hếu, y chang của con nít, sợ quá bỏ chạy luôn. Mình cười khì, nói cứt, mày mà bỏ chạy! Nó nói thiệt chơ, chơi đàn bà no hair xui lắm. Đó, thằng Tín bị tù vì con Lan no hair đâu phải vì tiêu cực. Mình nói cứt, tao không tin. Nó nói tui hỏi anh cả tỉ thằng bảo kê sao mình thằng Tín bị bắt? Mình nói xài no hair mà xui tao chả tin. Thằng Đạt kêu cha cha cha anh ni không tin tui à bay. Nó nói anh có nhớ thằng Ba cờ la ma ta không, mình nói lạ gì, thằng này vẫn lê lết đi làm nhân sự các tỉnh, giàu có cự vạn. Thằng Đạt gật đầu, nói bây giờ con Lan là vợ hờ thằng đó. Mình trợn mắt há mồm, nói nhưng thằng Ba cờ la ma ta là bạn thân thằng Tín mà. Thằng Đạt cười khịt khịt, nói è he rứa mới hay.

Thằng Ba cờ la ma ta ở Hà Nội, làm báo tự do, quen hết lượt ông to bà nhỏ từ Nam ra Bắc, lang thang hết tỉnh này sang tỉnh nọ bày đặt nhân sự nhấc ông này lên đạp ông kia xuống, tống tù ông này tha bổng ông kia, cứ y như nó dưới một người trên muôn vạn người vậy, rất kinh. Lạ cái ai cũng biết nó là thằng nào nhưng ai cũng tỏ ra nể sợ nó lắm. Nó uống rượu với các quan tỉnh nói năng nghênh ngang, thằng thằng ông ông. Thỉnh thoảng nó bật mobile gọi bà chị à, em đang ngồi với thằng X thằng Y đây, bà chị nói chuyện với nó chút. Ông X ông Y cầm máy nghe tiếng bà chị thì mặt xanh như đít nhái, vâng vâng dạ dạ líu cả lưỡi.

Mình nói thằng Ba cờ la ma ta mà không cứu được thằng Tín a, vô lý. Thằng Đạt cười khịt khịt, nói ngu mà hắn cưú, con Lan lớn mổng cao mu rứa mà. Thằng Đạt kể nghe có người tố, thằng Tín biết nguy vội chạy ra Hà Nội gặp thằng Ba cờ la ma ta cấp cứu. Thằng Ba cờ la ma ta cười nhẹ không, nói chi mà lo rứa hè, chuyện vặt, mời tao một bữa đ. thật hoành tráng rồi tao lo cho. Thằng Tín mời Ba cờ la ma ta vào Huế, thuê ba em xịn xuống đò ba đêm hết 900 đô. Ba cờ la ma ta vỗ vai thằng Tín nói eng tam mình cả mà, vụ ni nhỏ, chỉ cần một cái là xong thôi, cần chi ba cái.

Nói thế nhưng khi ra Hà Nội nó gọi điện bảo thằng Tín mày cầm ra cho tao chục nghìn (đô). Thằng Tín đang búi việc, bảo Lan cầm ra. Được vài hôm Lan chạy vào nói anh Ba cờ la ma ta nói đây là vụ điểm, khó gỡ lắm, đưa thêm hai chục ngàn nữa. Lan cầm hai chục ngàn ra Hà Nội ở lại cả tháng, thằng Tín gọi địên hỏi răng rồi răng rồi, con Lan nói sắp rồi sắp rồi anh yên tâm. Tóm lại thằng Tín bị bắt, bị bỏ tù 4 năm, Lan cũng biệt vô âm tín.

Mình nói con Lan dám lặn biệt tăm a, ra tù thằng Tín nó làm thịt. Thằng Đạt nói chỉ biệt khi thằng Tín mới vô tù thôi, bây giờ thỉnh thoảng nó vẫn vô thăm thằng Tín, mang cả đống quà, ôm thằng Tín khóc lóc tội nắm mừ tội nắm mừ, he he.

Mình nói ba thằng Tín không làm chi được a. Thằng Đạt cười khịt khịt, nói làm chi, đương chức thì rứa thôi, về hưu cái là chống tiêu cực ầm ầm, chẳng qua trâu cột ghét trâu ăn, he he. Mình nói mày nói phét tao không tin. Thằng Đạt ôm đầu mình hôn chụt chụt nói ngu nắm mừ, ngu nắm mừ.

Bốn năm sau, năm 2000, mình về thị xã Quảng Trị, đưa bạn bè đi Lavang chơi. Lavang được coi là một trong 7 nơi trên thế giới Đức Mẹ hiện hình, khách du lịch thăm rất đông, mình thì đã quá quen, không thăm nữa, chỉ ngồi ở quán chờ chúng nó.

Uống chưa hết chai bia Huđa thì thấy Lan khoác tay một ông to béo, từ gót giày lên đỉnh đầu vô cùng sang trọng, từ ô tô bước ra. Lúc đầu mình không nhận ra Lan, cô trẻ đẹp gấp mười, phong nhũ phì đồn hết mực. Gần bốn mươi tuổi mà da dẻ nõn nà, ngực tròn căng, núng nính chuồi ra cổ áo. Lan tát nhẹ má mình cái nói anh Lập vô khi mô, ngồi chi đây, rồi quay lại vuốt vuốt cái bụng bự của người đàn ông, nói chồng em đây nì. Mình quá ngạc nhiên.

Người chồng lịch sự bắt tay, nhìn mình thân thiện, nói à Nguyễn Quang Lập - Mảnh đất lắm người nhiều ma, tôi đọc rồi thích lắm. Mình chưa kịp đính chính anh lại nói nhưng cái Bến không chồng của anh hay hơn, mang âm hưởng thời đại hơn, nó giống như kịch Cách mạng của Nguyễn Đình Thi rất sâu sắc. Mình ngọng mồm chẳng biết nói thế nào.

Anh mời mình ngồi nhậu, ây yếm khoác vai Lan, nói quê vợ tôi có hai nơi không thể không đến, đó là Lavang và Cửa Tùng, tuyệt vời! Lan ép má bên vai anh nũng nịu, nói quê em nghèo chết, anh không giúp đỡ chi cả. Anh vuốt nhẹ tóc mai Lan, nói anh thấy vợ tôi hay không, suốt ngày kêu hộ cho cán bộ tỉnh.

Lan lườm yêu anh, nói anh toàn cho tỉnh người ta, không cho tỉnh em, tức nắm mừ tức nắm mừ. Anh lại vuốt tóc mai Lan, nói có thấy tỉnh em kêu gì đâu. Lan ngúng nguẩy, nói răng không kêu, tức nắm mừ tức nắm mừ. Anh hôn nhẹ tóc mai Lan, nói không ai như vợ tôi, yêu quê hương hơn cả bản thân mình. Lan ngúng nguẩy, nói anh toàn khen em, không chịu cho quê em, tức nắm mừ tức nắm mừ.

Một người lóm thóm chạy đến, gập mình bắt tay anh, nói dạ nghe tin anh ra, dạ tụi em tìm anh miết, dạ mời anh lên gác chút. Anh xin lỗi mình đi theo anh này. Đợi anh đi khuất mình hỏi nhỏ Lan, nói Ba cờ la ma ta đâu rồi. Lan nói chết rồi. Mình hỏi sao chết? Lan hậc nhẹ, dẩu môi nói thì chơi gái, rượu, nửa đêm nhảy ra tắm, chết thôi. Lan nói mấy thằng buôn thần bán thánh, miệng hôi mùi rượu, tay tanh mùi l. chết nguyên xác là may.

Mình hỏi thằng Tín ra tù làm đâu. Lan lại hậc nhẹ, dẩu môi nói mần chi, ra tù thất tha thất thểu, nghe nói chữa xe máy ở Huế. Lan nói mấy thằng chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng, ba hoa chích choè, tù 4 năm là may. Mình lại hỏi nhỏ, nói đại gia này có vợ rồi à, nó cười phì, nói vợ lão chết rồi, may, em là vợ chính thức ke ke ke.

Chưa kịp hỏi anh cu Kiện thì chồng Lan xuống, kéo theo ba bốn người, hình như là dân vai vế trong tỉnh. Họ khúm núm bắt tay Lan, nói chị mới ra chị mới ra, ua chầu chầu chị nhớ quê như ri cảm động quá cảm động quá. Lan cười rất tươi, nói em phải lôi cổ chồng em về với tỉnh mình đó, mọi người nói ua chầu chầu quí hoá quá quí hoá quá. Một người nói ai cũng có tấm lòng yêu quê như chị Lan thì tỉnh mình giàu hung. Mọi ngươì ồ lên, nói đúng rồi đúng rồi. Lan vỗ bụng chồng, lườm, nói đó, nghe anh em người ta nói chưa, rồi áp má vào vai chồng, tay xoa xoa bụng chồng, nói tức nắm mừ tức nắm mừ!

Thấy chẳng ai quan tâm đến, mình tẽn tò chào rồi đi, cũng không ai để ý. Gặp thằng Đạt mình nói con Lan có chồng đại gia mày biết chưa? Nó nói biết rồi, Ba cờ la ma ta là đệ tử của ông này đấy. Mình nói rứa a rứa a. Nó nói chơ răng, không rứa con Lan răng mà quen được. Mình kêu to, nói kinh hồn cái bướm không lông.

Mình và thằng Đạt phi về Gio Linh thăm anh cu Kiện. Anh ngồi ăn với ba đứa con. Hai thằng đầu và cô con gái 4 tuổi. Anh Kiện nói con ni là con thằng Ba cờ la ma ta. Mình nói anh biết hết à? Anh cười hậc, è he ngu chi không biết. Thằng Đạt nói biết răng anh im lặng? Anh thả cái bát khóc oà, nói vì tui muốn có con… nhuwng mần răng mà có được. Rồi tụt quần, nói của tui ra ri đẻ đái làm răng. Mấy đứa con anh vỗ tay cười như nắc nẻ.

Anh Kiện xoa đầu bé gái, nói con Lan đẻ xong con ni thì đòi li dị. Tui nói cút cha mi đi, li dị cái mả tổ mi, mất công tao ra toà! Rứa là nó đi. Thả cả ba đứa con nhẹ không, y như đánh rắm xong bỏ đi, để người khác ngửi.

Mình nhìn anh, nói thôi, anh có ba đứa con cũng được rồi. Anh Kiện nói chơ răng, tui có ba đứa con, nó có bốn chồng, coi thử ai hơn ai. Thằng Đạt nói è he, không khéo mai mốt con ni trị quốc bình thiên hạ chớ không phải chuyện chơi. Anh Kiện nói bình cái đầu buồi thì có, thiên hạ ngu cả à.

Anh Kiện bày rượu ra, nói uống với tui một ly rồi tui nói với các anh một câu. Mình với thằng Đạt uống với anh hết gần hai chai rồi mà anh vẫn không chịu nói. Thằng Đạt nhắc đi nhắc lại hai ba lần, nói anh nói chi thì nói đi. Anh Kiện cười cái hậc, nói trí thức các anh tởm lắm. Mình hỏi sao. Anh Kiện lại cười cái hậc, nói sao trăng chi hè, trí thức mấy anh cái chi cũng biết mà không chịu nói, ngậm miệng ăn tiền, ngu ngu tởm tởm, còn tởm hơn cái bướm không lông.
Admin gửi hôm Thứ Tư, 18/08/2010

Thứ Năm, 5 tháng 8, 2010

Những người đàn bà tắm- Thiết Ngưng


NGƯỜI ĐẸP LÀ CHỦ TỊCH HỘI NHÀ VĂN


Nhà văn Thiết Ngưng

NTT: Một người đẹp 49 tuổi làm Chủ tịch hội Nhà Văn của một quốc gia, lại còn là ủy viên BCH trung ương đảng. Chả lẽ các nhà văn cứ thấy đẹp là bầu? Đảng cũng vậy chăng? Những câu hỏi như thế có thể xuất hiện ở Việt Nam với người phụ nữ ấy. Nhưng không, đọc văn của chị mới thấy sự quyết liệt tin yêu tốt đẹp con người và khinh bỉ xấu xa đến cực độ. Và người ta bầu chị vì sự kính trọng tài năng và nhân cách văn chương của chị. Đó là nữ nhà văn Thiết Ngưng, đương kim Chủ tịch hội Nhà Văn Trung Quốc. Bạn thử đọc một đoạn văn của nữ Chủ tịch xem sao!

TRÍCH "NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ TẮM" CỦA THIẾT NGƯNG

Một ngày mùa thu năm 1966, Khiêu mới là học sinh lớp 1,được dự đại hội phê đấu rất ồn ào náo loạn diễn ra ở sân trường...

Cứ từng đợt từng đợt học sinh lại giơ cánh tay non nớt lên,từng đợt từng đợt hô rất mạnh mẽ những khẩu hiệu như:"đả đảo con đĩ Đường Tân Tân"...Khiêu biết Đường Tân Tân là cô giáo của trường,dậy toán bậc trung học phổ thông.Khiêu còn nghe những bạn nam bàn luận ở phía sau,chẵng nhẽ cô giáo ấy lại là một con đĩ sao?

Cô giáo Tân bị mấy nữ học sinh dẫn lên sân khấu,trước ngực viết mấy hàng chữ bằng mực đen:"Tôi là một con đĩ"...dòng chữ làm Khiêu ghê người,trong ý niệm của cô bé,con đĩ không chỉ là xấu xa mà còn là xấu xa nhất trong những người xấu xa,xấu hơn cả địa chủ,nhà tư bản.Khiêu nghĩ không hiểu tại sao một người lớn lại tự nhận "tôi là một con đĩ"nhỉ?...

Cô giáo Tân chừng ba mươi tuổi,da trắng,người gầy,quá gầy và trắng,cắt tóc ngắn và sống mũi cao,trông như một cây tăm...Cô đúng là một cây tăm mà không fải là cây dương liễu,bởi trông cô mảnh mai nhưng cứng rắn,cô như cây tăm cắm trên mặt bàn,mấy nữ học sinh lớp trên cứ xô đẩy nhưng cô vẫn không chịu quỳ mà cũng không cúi đầu...Khiêu có phần đồng tình với cô giáo Tân bởi cô đẹp.Đẹp,chỉ thế thôi.

...chợt có một phụ nữ trạc tuổi trung niên mặc áo cánh xẻ tà màu mỡ gà lên sân khấu,xỉa xói vào cô giáo Tân nói:"gọi mày là con đĩ oan ức lắm à?tao hỏi mày,mày đã lấy chồng chưa?mày chưa bao giờ lấy chồng.mày chưa lấy chồng mà đã có con,thế thì mày ngủ với ai,khai thật ra".Tiếng hô khẩu hiệu lại vang lên:"Mụ Tân phải khai ra!không khai thì thầy giáo và học sinh cách mạng sẽ không tha!"...

Một học sinh nam lớn tuổi đi vòng ra phía sau cô giáo Tân,đạp mạnh vào khuỷu chân cô giáo,cô giáo "hự" lên một tiếng rồi ngã quỵ xuống.Cả sân trường hoan hô,vậy là cái cô giáo chết cũng không chịu quỳ đã bị bọn học sinh lớn khuất phục.Đại hội phê đấu tiếp tục,mấy giáo viên trẻ thay nhau lên phát biểu,chỉ trích gay gắt cô giáo Tân đã giấu giếm chuyện nghiêm trọng trong cuộc sống riêng,lừa dối để được đồng nghiệp tin tưởng,nhà trường tín nhiệm,học sinh tin yêu.các em học sinh hãy nghĩ xem,một sự việc ghê tởm biết chừng nào,một phụ nữ suy đồi về đạo đức,tác phong xấu xa như thế mà có thể là cô giáo...Tiếng hô khẩu hiệu lại vang lên:"Mụ Tân phải cút khỏi trường,không cút thì những người kế tục sự nghiệp cách mạng của nhà trường sẽ không tha!"...

"còn nữa,hàng xóm của mụ còn phản ánh,ở trường mụ Tân giả bộ giản dị,ở nhà thì sống theo lối sống của giai cấp tư sản,mụ nuôi mèo,đối với mèo tốt hơn đối với người,có hôm mụ ta dám ngồi ngoài sân ôm con mèo,hôn hít nó!trời đất ơi,hôn mèo!"

Cả sân trường cười ồ lên,tiếp theo là khẩu hiệu tỏ ra phẫn nộ hơn:"Đả đảo con đĩ Tân Tân"

Những cái xấu của cô giáo Tân càng nói càng nhiều,chỉ bắt cô quỳ nghe khẩu hiệu thôi thì chưa đủ.Nhất là khuôn mặt gầy,trắng trẻo kia tỏ vẻ đối địch,nhất dịnh không nói điều gì càng làm cho những người trên sân khấu thêm phần nộ khí xung thiên.Một học sinh nam lớn tuổi gí ngay chiếc giày lính hắn đang đi vào mặt cô giáo và nói:"mèo của giai cấp tư sản mày còn hôn,chẳng nhẽ mày không hôn giày của giai cấp vô sản hay sao!"Hắn vừa nói vừa gí giày vào mặt cô giáo,một nữ sinh đến gần ấn đầu cô giáo xuống,bắt cô áp miệng vào chiếc giày của thằng kia.rất nhiều cái chân cùng giơ ra,bắt cô giáo phải áp miệng vào những chiếc giày đầy bụi bẩn.

Cả sân trường sục sôi,trên sân khấu người đứng lố nhố.Học sinh ngồi dưới cũng không trật tự nữa,chúng xô đẩy,có đứa trèo lên ghế,có đứa chen nháo nhào lên sân khấu để xem cho rõ...Bỗng có mùi thối,không hiểu ai đang đem đến 1 ca phân.Chỉ nghe có tiếng nói:"quá lắm,mụ Tân không chịu hôn giày của chúng ta,mồm mụ chỉ xứng đáng ăn cứt!Đúng đúng...Bắt mụ phải khai thành thật,không khai phải ăn cứt!"

Bắt cô giáo ăn phân!

Phân xuất hiện làm cả sân trường trật tự trở lại,mùi thối làm mọi người ngơ ngác.Đúng là phân được đựng vào ca uống nước đưa lên sân khấu đã kích thích dây thần kinh sâu nhất trong cơ thể con người.Sức uy hiếp của phân đã lên đài như thế.Những người chen đến sát sân khấu bỗng lùi lại,những người đứng trên ghế ngồi cả xuống.Giống như một vở diễn,bắt đầu mở màn người xem còn nhốn nháo,khi vở diễn đến hồi gay cấn thì mọi người cùng chăm chú thưởng thức.Bắt cô giáo ăn phân có thể là hồi gay cấn của đại hội phê đấu này.

Ca phân đặt trước mặt cô giáo Tân,chỉ cách cô chừng 1 mét.Vẫn khuôn mặt trắng trẻo.Mọi người chờ cô khai báo thành thật,vì cớ gì lại không nói...Trái tim Khiêu như có ai bóp chặt,nó cứ mong cho cô giáo nói ngay ra,như thế cô giáo không phải ăn phân.Nhưng nhiều người không nghĩ như Khiêu,bọn họ không muốn cô giáo khai báo.Khi mọi người phải lựa chọn khai báo và ăn phân thì bọn họ muốn không phải là thấy người kia khai báo,mà muốn thấy người đó ăn phân.

Cô giáo không nói mà cũng không chịu ăn.Lúc này có 1 thằng học sinh lớn đến nói với cô giáo Tân:"nếu mụ không chịu khai báo,không chịu ăn cứt thì chúng ta còn có cách khác,lẽ nào quần chúng cách mạng lại chịu thua con đĩ này,chúng ta điệu đứa con gái của mụ lên đây cho mọi người thấy,cho mọi người trông thấy đứa con gái của mụ,bằng chứng cho hành động đĩ thoã tội lỗi của mụ ta.

Cô giáo Tân không còn giữ nổi bình tĩnh nữa,Khiêu thấy cô lê bằng đầu gối đến trước ca phân,cô không chờ cho tiếng hò hét đinh tai nhức óc của bọn người kia tắt đi mà đi đến quyết định dứt khoát,để lại cho Khiêu một ấn tượng suốt đời không thể quên.Cô giáo quỳ gối bưng ca phân lên,nhìn vào trong ca một lúc,rồi trước mặt mọi người,đưa lên ăn...

Khiêu về nhà,việc đầu tiên là đánh răng súc miệng,tưởng như phải dùng hết ống kem đánh răng.Đánh răng làm Khiêu nôn oẹ,nôn oẹ rồi lại đánh răng.Đánh răng xong,Khiêu đưa nhẹ cái bàn chải vào họng cho nôn thốc nôn tháo.Khiêu nôn ra thức ăn,cuối cùng là nước nhờn.Nôn xong lại đánh răng,hai tay bịt mũi bịt miệng,bịt thật chặt,hà hơi thật mạnh.Rồi Khiêu cũng yên tâm trong miệng mình sạch sẽ ,sạch như kem đánh răng.Khiêu lấy khăn lau miệng,lau đi lau lại,miệng đỏ lên,bật cả máu,đau cả miệng...Khiêu ở trong nhà vệ sinh rất lâu.

Từ trong nhà vệ sinh ra,mắt Khiêu đỏ,đầu nặng trĩu.Phàm đến,Khiêu ôm hôn Phàm.Hai chị em hôn nhau kêu chun chút.Khiêu hôn bố,hôn mẹ,hôn 2 cái ghế đệm cũ kĩ,hôn cái ghế nhỏ,hôn cái máy thu thanh lạnh ngắt...Chắc hẳn bố mẹ nghĩ rằng Khiêu ốm,bảo Khiêu đi ngủ.Khiêu lên giường,trên giường có cái khăn tay,Khiêu giở khăn ra,giữa chiếc khăn là hình 1 chú mèo trắng mắt vàng.Khiêu nhìn chú mèo rồi vứt nó vào 1 góc.Khiêu lại với lấy chiếc khăn tay,giở ra nhìn chú mèo,hôn lên miệng mèo,rồi khóc...

Nguồn: linhkhanhblog

Thứ Sáu, 30 tháng 7, 2010

Giang hồ - Phạm Hữu Quang

Giang Hồ

Tàu đi qua phố, tàu qua phố
Phố lạ mà quen ta giang hồ
Chẳng lẽ suốt ngày bên bếp vợ
Chẻ củi, trèo thang với … giặt đồ

Giang hồ đâu bận lo tiền túi
Ngày đi ta chỉ có tay không
Vợ con chẳng kịp chào xin lỗi
Mây trắng trời xa trắng cả lòng

Giang hồ ta ghé nhờ cơm bạn
Đũa lệch mâm suông cũng gọi tình
Gối trang sách cũ nằm nghĩ bụng
Cười xưa Dương Lễ với Lưu Bình

Giang Hồ có bữa ta ngồi quán
Quán vắng mà ta chửa chịu về
Cô chủ giả đò nghiêng ghế trống
Đếm thấy thừa ra một gốc si

Giang hồ mấy bận say như chết
Rượu sáng chưa thưa đã rượu chiều
Chí cốt cầm ra chai rượu cốt
Ừ. Thôi. Trời đất cứ liêu xiêu

Giang hồ ta chẳng hay áo rách
Sá gì chải lược với soi gương
Sáng nay mới hiểu mình tóc bạc
Chợt tiếng trẻ thưa ở bên đường

Giang hồ ba bữa buồn một bữa
Thấy núi thành sông biển hoá rừng
Chân sẵn dép giày trời sẵn gió
Ngựa về. Ta đứng. Bụi mù tung …

Giang hồ tay nải cầm chưa chắc
Hình như ta mới khóc hôm qua
Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt
Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà.

Phạm Hữu Quang, 5-1991

Chủ Nhật, 23 tháng 5, 2010

Bút ký- Ký ức sông quê...Bồ giang


Bút ký
KÝ ỨC SÔNG QUÊ… BỒ GIANG

Lê Quang Kết
Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang -dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người. Vượt qua bạt ngàn núi rừng bí ẩn và hoang sơ của Trường Sơn hùng vĩ, dòng Hương bỗng phân vân khi đến địa danh A Sầu (A Lưới) và một nhánh rẻ xuôi theo hướng Đông Nam đã khai sinh con sông Bồ khiêm tốn dịu dàng làm đẹp thêm những làng quê Thừa Thiên yêu dấu.
Lũ chúng tôi lớn lên bên dòng sông ấy- một chặng dài tuổi thơ đầy ắp bi thương bởi chiến tranh và bao nhọc nhằn lo toan khác. Nhiều thứ đã vội quên trong ký ức chỉ riêng con sông Bồ thì cứ miệt mài chảy trôi theo năm tháng với bao kỷ niệm êm đềm, đằm thắm. Sông Bồ quê tôi như nỗi lặng thầm của bà mẹ dịu hiền che chở và ôm ấp những làng quê nghèo khó trải dài từ A Lưới, Hương Trà, Phong Điền, Quảng Điền rồi hội ngộ với dòng Hương ở Ngã ba Sình với bao giai thoại đầy thi vị.
Chuyến vượt sông Bồ năm xưa vẫn in đậm trong tôi- ký ức đẹp về một thời trai trẻ. Ngày đó chúng tôi tình nguyện giảng dạy miền núi, cùi cái chữ lên cho bà con dân tộc thiểu số- như người ta thường bảo- thuộc huyện A Lưới miền Tây Thừa Thiên - Huế. Bạn tôi, HĐK đã ví von: “ Chúng tôi có những ngày đi bộ/ Chúng tôi có những ngày gian khổ/ Trong cuộc sống có người chưa biết chuyện xa hơn con đường phố…”. Ấy mà bên cạnh các anh chàng thư sinh trói gà không chặt còn có nhiều thiếu nữ xuân thì vừa tốt nghiệp sư phạm đã nhẹ nhàng qua sông -họ vốn là nữ sinh Huế một thuở với bao mơ mộng dệt thành thơ. Kiến thức của ngày tháng hướng đạo sinh đã giúp chúng tôi giăng dây kết bè đưa cả đoàn vượt sông trước cơn thịnh nộ của bão lũ. Tôi nhớ như mới hôm qua -những Bồng, Trà, Tiêm, Trâm, Tỵ, Thanh, Thương, Loan, Phụng, Khuyến, Tuyết…Các cô thời ấy đang thanh xuân tràn trề nhựa sống vậy mà giờ họ đã thuộc lớp“U 60”, tuổi làm mạ chồng và làm mệ của các cháu nhỏ. Các chị giờ đang nơi nào? Có nhớ về những ngày A Lưới? Những địa danh được ai đó Việt hóa: Hồng Quãng, Hồng Thái, Hồng Thượng, Hồng Bắc, Hồng Kim, Hồng Nam, Hồng Vân, Hồng Thủy, Hồng Trung, Hồng Hạ, Hồng Tiến, Bắc Sơn, Hương Lâm, Đông Sơn và Hương Nguyên xa xôi của chàng Lê Tất Tưởng. Hay những tên vốn xa lạ đã thành thân quen với lũ chúng ta như: A Ngo, Nhâm, A Roàng, A Đớt rồi những ngôi trường mới được đặt tên: Hương Phong, Sơn Thủy, Phú Vinh…Khó ai quên được những ngày và một thời như thế. Riêng tôi, người rời A Lưới cuối cùng trong đợt miền núi đầu tiên ấy đã bỏ sông Bồ mà đi biền biệt. Xa quê xa sông xa bạn bè ngày tháng cũ, tôi như nợ nần - món nợ sông quê chồng chất dài theo tuổi tác cứ lần lữa hẹn hò mà có làm được gì đâu?
Sông Bồ chảy qua Thanh Lương, Bác Vọng Đông và Phước Yên rẽ thêm nhánh nhỏ - nơi đây có ngã ba sông và con đò ba bến. Tuổi nhỏ tôi nghe chuyện kể “Miếu Bà Tơ” mỗi khi lên đò. Cụ già râu tóc bạc trắng ung dung bên mái chèo giọng từ cõi xa xăm: “Đại trượng phu/ Không hề xé gan, bẻ cật/ Phủ cương thường/ Hà tất tiêu dao/ Bốn bể luân lạc tha phương/ Trời nam, nghìn dặm thẳm/ Non nước, một màu sương/ Chí chưa thành, danh chưa đạt/ Trai trẻ bao lăm, mà đầu bạc/ Trăm năm thân thế, bóng tà dương/ Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi/ Trời đất mang mang/ Ai người tri kỷ…/ Lại đây cùng ta/ Chung cạn một hồ trường…”. Ngày đó tôi có biết chi mô- Hồ trường (*), chỉ nghe rờn rợn đến tim óc. Sau này mới hiểu được đôi điều, người làng bảo: Cụ già chèo đò ba bến là người thừa tự cuối cùng của dòng họ Bà Tơ là dâu trưởng. Năm xưa, hội đua ghe làng Bác Vọng chiếm luôn cả hai giải Tiền và Phá, ghe làng chuẩn bị về đích bỗng đứt quai chèo- Bà Tơ đã nhanh tay rút dải lưng quần buộc lại, ghe làng giật giải. Có người còn tiếu lâm hài hước -thánh hóa dân gian chuyện thực hư: không phải dây lưng quần đâu mà cái dây lạ lùng ở tận bên trong kia - hình như người ta gọi “ âm mao” thì phải!? Cả làng reo vui ăn mừng chiến thắng, tôn vinh lập miễu thờ Bà Tơ nay ngót hơn 500 năm lẻ. Đến bây giờ lớn khôn tôi vẫn chưa hiểu nổi- một ông già quê ngoài thất thập có thể ngâm ngợi như bậc hiền triết phương Đông “Nam Phương ca khúc-Hồ Trường”- một thiên cổ thi chỉ dành cho học giả uyên thâm văn học?
Có lần tôi trở về thơ thẩn bên sông. Chuyến đò xuôi dòng từ Phú Lễ, Hạ Lang bên kia là Phú Ốc, Văn Xá. Đò buông mái chèo chầm chậm nơi ba bến xưa, tôi thẩn thờ ngắm sông. Chiều sắp tàn. Con đò như hành thiền trên sông. Còn tôi mất hồn nhìn sự tĩnh tại lạ kỳ của dòng nước. Dòng nước trôi hay đang dừng lại, con đò đang di chuyển hay đứng yên, cả tôi cũng thế- đi hay ở, động hay tĩnh? Mặt sông tĩnh lặng nhưng dòng thủy lưu vẫn nhẹ trôi. Tôi bỗng nhớ câu Kinh nhà Phật đâu đó: Những có và không, những còn và mất, những đến và đi, hiện hình và tiêu tán, phải chăng cũng chỉ là chuyện của cõi người ta và của giới tự nhiên - thế thôi, chẳng ai lo liệu toan tính hay thay đổi được.Tôi đã gặp một con người như thế- cả đời chỉ sống bên lỡ của dòng sông. Ngày ngày lặn hụp đáy sông kiếm sống. Nhà chú sống phía bên lỡ sông Bồ, trận lụt năm kia trôi cả nhà cửa, chỉ còn con đò nhỏ làm nơi tạm cư cuộc sống vạn chài. Chẳng biết bây chừ chú có còn lặn cát kiếm cơm như ngày trước, gia đình đã kịp lên bờ định cư hay còn lênh đênh trên sông nước?
Hóa ra dòng sông nào cũng có linh hồn, thần thái riêng gắn bó với cuộc đời mỗi người. Nhà ngoại tôi trước mặt là con hói -một nhánh nhỏ của sông Bồ. Lũ chúng tôi ngày nào cũng lặn hụp bến sông. Bao giờ cũng thế cả bọn chạy ào lên bãi bồi Nam Phù, thả mình trên sông lớn rồi xuôi dòng về hói. Vậy mà có lần tôi đuối ở hói này. Mùa lụt năm ấy trên đường về tôi quyết định bơi qua hói. Mọi khi chỉ mấy sải tay là tới nhưng lần này tôi đuốc sức mặc dòng nước cuốn trôi. Người đã địu tôi vào bờ là mụ Cai. Bà ngoại tôi bảo: ma rà kéo cháu đi, thần sông thần hói lôi cháu đi phải làm vắt cơm quả trứng để tạ tội với thần. Nhiều lần sau này mỗi lần về quê tôi cố tìm mụ Cai- ân nhân lớn đời tôi nhưng bặt vô âm tín, người làng quê vốn vô tâm chẳng quan tâm chi ơn nghĩa, coi chuyện đạo lý ở đời là lẽ tự nhiên- thế thôi. Một chân lý bất tuyệt đã được hiển ngôn - trước sự giận dữ và cuồng nộ của thiên nhiên, con người bỗng nhiên thấy mình cô đơn, bé nhỏ, bất lực hay là cái hữu hạn vô thường của đời người trước cái bất tận vô hạn của giới tự nhiên.
Phò Nam là tên làng tôi, nhỏ nhắn và lặng lẽ bên bờ sông Bồ của xứ Quảng Điền nghèo khó. Điều hạnh phúc vô bờ là người làng tôi được sống cả hai bên lở và bồi của con sông quê, hình như duy nhất chỉ một làng quê đặc ân như thế: Phò Nam Làng và Phò Nam Phe. Thi vị hơn cả là làng có con đò đón đưa hai bờ, sẻ chia bao hạnh ngộ buồn vui. Những chuyến ghe đầy ắp chuyển sắn khoai, lúa bắp và các thứ qua lại tấp nập ngày vụ chiêm được mùa. Những ánh mắt lo âu, thẩn thờ trong cơn túng bấn những lúc giáp hạt thiếu ăn. Rồi chuyện lũ lụt trên sông Bồ làm người làng tôi phải ly hương tha phương khắp chốn… Và tôi cũng thế, bỏ làng bỏ quê cơm đùm gạo bới “lên dinh” trọ học. Ngày ra đi mạ mừng mừng tủi tủi còn người làng ngóng theo với niềm kỳ vọng ngày vinh quy. Thế mà chàng trai quê năm xưa giờ đã bạc tóc vẫn loay hoay với bao nặng nhẹ lẫn lộn chẳng làm nên trò trống gì- phụ lòng uổng công bao người trông đợi…Chiều nay từ nơi xa mắt dõi về quê cũ, tôi nghe lòng nặng trĩu. Cảm ơn giai điệu và ca từ của nhạc sĩ Hoàng Hiệp đã đưa tôi trở về với sông quê- dù rằng dòng sông của ông mãi tận trời Nam: “ Quê tôi ai cũng có một dòng sông bên nhà/ Con sông quê gắn bó với tuổi thơ đời tôi/ Bao năm xa quê ấy trong mơ tôi vẫn thấy/ Hôm nay tôi trở về lòng chợt vui thấy sông không già…”.
Tôi đã đọc được đâu đó triết lý về những dòng sông: Con sông xứ sở dù lớn nhỏ, dài ngắn, dù thơ mộng dạt dào hay u trệ khô cằn hay… là gì đi nữa - nó vẫn mang tải trên mình những nền văn hóa văn minh cho dân tộc, sông mang hạt phù sa tô điểm những miền gái đẹp và làm thay đổi bao chuyện giữa cõi đời đậm chất nhân bản mà tự con người không thể thay thế được. Lý Bạch đã có những câu thơ tuyệt vời treo trên lầu cao về dòng sông : “ Quân bất kiến/ Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai/ Lưu bôn đáo hải bất phục hồi…”- Trương tiến tửu - Há chẳng thấy nước Hoàng Hà từ trời đổ xuống/ Chảy tuột biển đông chẳng quay về…- Hãy cạn chén! Hoàng Hà của ông như chàng lực sĩ cuồn cuộn tráng lệ chảy ra biển đông. Hay sông Dương Tử đi vào thơ ông như giải lụa thắt lưng trời “ Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu”. Viết ra như thế hẳn Tiên Thi yêu quê hương đất nước biết nhường nào? Sông Bồ của tôi không gì thể sánh bằng. Thế mà trong mỗi chúng tôi, ai cũng yêu sông Bồ theo kiểu của riêng mình. Có cụ già đã tới tuổi “cổ lai hy” lưu lạc tận trời Tây, dặn dò trăn trối : “ Mai này qua đời, cháu con cố đưa tao về lại bên sông Bồ, ở đó tao có mọi thứ mà ở đây không thể có....”. Bạn tôi, bao năm lưu lạc ra vào lợi danh, cuối đời đã ung dung về dựng thảo am bên sông Bồ vui thú điền viên tắm mát nơi bến sông quê. Nhiều đêm thao thức, chợp mắt tôi nghe thanh âm tiếng gọi đò vang vọng liên hồi, tỉnh ra lòng bồn chồn bao suy tư dự cảm. Những lúc như thế cõi lòng như rỗng không, tôi đau đáu hoài cảm với dòng sông quê- dù chậm nhưng tôi sẽ trở về với Bồ giang yêu dấu…

(*) Hồ trường do Nguyễn Bá Trác (1881-1945) dịch lại từ một ca khúc Trung Quốc đăng trên tạp chí Nam Phong, nhiều người yêu thơ rượu lâu nay đã tán dương cái phong vị hào sảng trong bài dịch này.


Lê Quang Kết
Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Bảo Lộc
454 Trần Phú, Tp. Bảo Lộc, Lâm Đồng
ĐT: 0633 717 123 - 0907 615 510 - email: lequangket54@yahoo.com

Thứ Bảy, 15 tháng 5, 2010

Truyện ngắn- Người mẹ điên

Người mẹ điên

Nguyên tác Hoa Ngữ: Vương Hằng Tích
Bản dịch tiếng Việt: Trang Hạ

Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người. Vì vậy, đàn bà trong làng đi qua cô gái thường nhổ nước bọt, có bà còn chạy lên trước dậm chân, đuổi "Cút cho xa!". Thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng.
Hồi đó, cha tôi đã 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá bị máy chém cụt tay trái, nhà lại quá nghèo, mãi không cưới được vợ. Bà nội thấy con điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi, làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi "đứa nối dõi" sẽ đuổi đi liền. Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng đành chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không phải mất đồng xu nào, nghiễm nhiên thành chú rể.

Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẵm cháu, hóp cái miệng chẳng còn mấy cái răng vui sướng nói: "Cái con mẹ điên này, mà lại sinh cho bà cái đứa chống gậy rồi!". Có điều sinh tôi ra, bà nội ẵm mất tôi, không bao giờ cho mẹ đến gần con.

Mẹ chỉ muốn ôm tôi, bao nhiêu lần đứng trước mặt bà nội dùng hết sức gào lên: "Đưa, đưa tôi..." bà nội mặc kệ. Tôi còn trứng nước như thế, như khối thịt non, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? Dù sao, mẹ cũng chỉ là con điên. Cứ mỗi khi mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội lại trợn mắt lên chửi: "Mày đừng có hòng bế con, tao còn lâu mới đưa cho mày.

Tao mà phát hiện mày bế nó, tao đánh mày chết. Có đánh chưa chết thì tao cũng sẽ đuổi mày cút!". Bà nội nói với vẻ kiên quyết và chắc chắn. Mẹ hiểu ra, mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, mỗi lần chỉ dám đứng ở xa xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được một ngụm sữa mẹ nào, bà nội đút từng thìa từng thìa nuôi cho tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có "bệnh thần kinh", nếu lây sang tôi thì phiền lắm.

Hồi đó nhà tôi vẫn đang giãy giụa giữa vũng bùn lầy của nghèo đói. Đặc biệt là sau khi có thêm mẹ và tôi, nhà vẫn thường phải treo niêu. Bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại cơm nhà, còn thỉnh thoảng làm thành tiếng thị phi.

Một ngày, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay xúc đầy một bát cơm đưa cho mẹ, bảo: "Con dâu, nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô. Cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà nào giàu có hơn một tí mà ở, sau này cấm không được quay lại đây nữa, nghe chửa?". Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội tôi hạ "lệnh tiễn khách" liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đờ ra lã tã trong miệng. Mẹ nhìn tôi đang nằm trong lòng bà, lắp bắp kêu ai oán: "Đừng... đừng...".

Bà nội sắt mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét: "Con dâu điên mày ngang bướng cái gì, bướng thì chả có quả tốt lành gì đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao dung mày hai năm rồi, mày còn đòi cái gì nữa? Ăn hết bát đấy rồi đi đi, nghe thấy chưa hả?". Nói đoạn bà nội lôi sau cửa ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất như Dư Thái Quân nắm gậy đầu rồng, "phầm!" một tiếng.

Mẹ sợ chết giấc, khiếp nhược lén nhìn bà nội, lại chậm rãi cúi đầu nhìn xuống bát cơm trước mặt, có nước mắt rưới trên những hạt cơm trắng nhệch. Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà một cách đáng thương hại.

Bà nội ngồi thẫn thờ, hoá ra, mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ sẽ chỉ ăn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ ngoài. Bà nội quay đầu đi, nuốt những nước mắt nóng đi, rồi quay lại sắt mặt nói: "Ăn mau ăn mau, ăn xong còn đi.

Ở nhà này cô cũng chết đói thôi!". Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm con cũng không ăn, thập thễnh bước ra khỏi cửa, nhưng mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu không bước ra. Bà nội dằn lòng đuổi: "Cô đi, cô đi, đừng có quay đầu lại. Dưới gầm trời này còn nhiều nhà người ta giàu!". Mẹ tôi quay lại, đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra, mẹ muốn được ôm tôi một tí.

Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tã lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẵm tôi vào lòng, môi nhắp nhắp cười, cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội như gặp quân thù, hai tay đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơn điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ ôm tôi chưa được ba phút, bà nội không đợi được giằng tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa lại.

Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu biết một chút, tôi mới phát hiện, ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ. Tôi tìm cha đòi, tìm bà đòi, họ đều nói, mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn bạn cùng làng đều bảo tôi: "Mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi." Tôi tìm bà nội vòi vĩnh, đòi bà phải trả mẹ lại, còn chửi bà là đồ "bà lang sói", thậm chí hất tung mọi cơm rau bà bưng cho tôi. Ngày đó, tôi làm gì biết "điên" nghĩa là cái gì đâu, tôi chỉ cảm thấy nhớ mẹ tôi vô cùng, mẹ trông như thế nào nhỉ? mẹ còn sống không?

Không ngờ, năm tôi sáu tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang.

Hôm đó, mấy đứa nhóc bạn tôi chạy như bay tới báo: "Thụ, mau đi xem, mẹ mày về rồi kìa, mẹ bị điên của mày về rồi!" Tôi mừng quá đít nhổng nhổng, co giò chạy vội ra ngoài, bà nội và cha cũng chạy theo tôi. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó vẫn áo quần rách nát, tóc tai còn những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là do ngủ đêm trong đống cỏ nào. Mẹ không dám bước vào cửa, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, trong tay còn cầm một quả bóng bay bẩn thỉu.

Khi tôi và lũ trẻ đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám tôi tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi, nhìn tôi chòng chọc, nhếch mép bảo: "Thụ... bóng... bóng...". Mẹ đứng lên, liên tục giơ lên quả bóng bay trong tay, dúi vào lòng tôi với vẻ nịnh nọt. Tôi thì liên tục lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ ngày đêm tôi nhớ thương lại là cái hình người này. Một thằng cu đứng cạnh tôi kêu to: "Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa? Là mẹ mày như thế này đấy!"

Tôi tức tối đáp lại nó: "Nó là mẹ mày ấy! Mẹ mày mới là con điên ấy, mẹ mày mới là thế này!" Tôi quay đầu chạy trốn. Người mẹ bị điên này tôi không thèm. Bà nội và bố thì lại đưa mẹ về nhà. Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị chất vấn dày vò, bà càng ngày càng già, trái tim bà cũng không còn sắt thép được nữa, nên bà chủ động đưa mẹ về, còn tôi lại bực bội, bởi mẹ đã làm tôi mất thể diện.

Tôi không bao giờ tươi tỉnh với mẹ, chưa bao giờ chủ động nói với mẹ, càng không bao giờ gọi "Mẹ!", khi phải trao đổi với mẹ, tôi gào là chủ yếu, mẹ không bao giờ dám hé miệng. Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội quyết định huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi đi làm đồng, bà nội dắt mẹ đi "quan sát học hỏi", bà bảo mẹ không nghe lời sẽ bị đánh đòn.

Sau một thời gian, bà nội nghĩ mẹ đã được dạy dỗ tương đối rồi, liền để mẹ tự đi cắt cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong cả hai bồ "cỏ lợn". Bà nội vừa nhìn đã tá hỏa sợ hãi, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đồng trỗ bông trong ruộng nhà người ta. Bà nội vừa sợ vừa giận phát cuồng chửi rủa: "Con mẹ điên lúa và cỏ mà không phân biệt được...

" Bà nội còn đang chưa biết nên xoay xở ra sao, thì nhà có ruộng bị cắt lúa tìm tới, mắng bà cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội tôi lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta lấy gậy đánh vào eo lưng con dâu, chửi: "Đánh chết con điên này, mày cút ngay đi cho bà..."

Mẹ tuy điên, nhưng vẫn biết đau, mẹ nhảy nhỏm lên chạy trốn đầu gậy, miệng phát ra những tiếng lắp bắp sợ hãi: "Đừng... đừng...". Sau rồi, nhà người ta cũng cảm thấy chướng mắt, chủ động bảo: "Thôi, chúng tôi cũng chẳng bắt đền nữa. Sau này giữ cô ta chặt một tí là được...". Sau khi cơn sóng gió qua, mẹ oại người dưới đất thút thít khóc.

Tôi khinh bỉ bảo: "Cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn!" Lời vừa dứt, gáy tôi bị một cái tát lật, là bà. Bà trừng mắt bảo tôi: "Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy? Mày còn thế này nữa? Đấy là mẹ mày đấy!" Tôi vùng vằng bĩu môi: "Cháu không có loại mẹ điên khùng thế này!"

"A, mày càng ngày càng láo. Xem bà có đánh mày không!" Bà nội lại giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt: "Đánh tôi, đánh tôi!"

Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, đừng đánh tôi. Cánh tay bà trên không trung thõng xuống, miệng lẩm bẩm: "Con mẹ điên này, trong lòng nó cũng biết thương con đây!". Tôi vào lớp một, cha được một hộ chuyên nuôi cá làng bên mời đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm ruộng dưới sự chỉ bảo của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không còn gây ra vụ rầy rà nào lớn nữa.

Nhớ một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi mẹ đã ngã ì oạch mấy lần, toàn thân trông như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ở ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng còn gọi tôi: "Thụ... ô...".

Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông, oán hận mẹ khủng khiếp, hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi xấu hổ, càng hận thằng Phạm Gia Hỷ cầm đầu trêu chọc. Trong lúc nó còn đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp cái hộp bút trước mặt, đập thật mạnh cho nó một phát, nhưng bị Phạm Gia Hỷ tránh được.

Nó xông tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau. Tôi nhỏ con, vốn không phải là đối thủ của nó, bị nó dễ dàng đè xuống đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng "vút" kéo dài từ bên ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp "bay" ào vào, một tay tóm cổ Phạm Gia Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp. Ai cũng bảo người điên rất khỏe, thật sự đúng là như vậy. Mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên trên không trung, nó kinh sợ kêu khóc gọi bố mẹ, một chân béo ị khua khoắng đạp loạn xạ trên không trung. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, rồi mặt thản nhiên, mẹ đi ra.

Mẹ vì tôi gây ra đại hoạ, mẹ lại làm như không có việc gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, nhìn tôi vẻ muốn lấy lòng. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt. Lúc đó tôi không kìm được kêu lên: "Mẹ!" đây là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói.

Mẹ sững sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, rồi y hệt như một đứa trẻ con, mặt mẹ đỏ hồng lên, cười ngớ ngẩn. Hôm đó, lần đầu tiên hai mẹ con tôi cùng che một cái ô về nhà. Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà nội sợ rụng rời ngã ngồi lên ghế, vội vã nhờ người đi gọi cha về. Cha vừa bước vào nhà, một đám người tráng niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì, trước tiên đập phá mọi bát đũa vò hũ trong nhà nát như tương, trong nhà như vừa có động đất cấp chín.

Đây là những người do nhà Phạm Gia Hỷ nhờ tới, bố Phạm hung hãn chỉ vào cha tôi nói: "Con trai tao sợ quá đã phát điên rồi, hiện đang nằm nhà thương. Nhà mày mà không mang 1000 tệ trả tiền thuốc thang, mẹ mày tao cho một mồi lửa đốt tan cái nhà mày ra."

Một nghìn tệ? Cha đi làm một tháng chỉ 50 tệ! Nhìn những người sát khí đằng đằng nhà họ Phạm, cha tôi mắt đỏ lên dần, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt dỡ thắt lưng da, đánh tới tấp khắp đầu mặt mẹ. Một trận lại một trận, mẹ chỉ còn như một con chuột khiếp hãi run rẩy, lại như một con thú săn đã bị dồn vào đường chết, nhảy lên hãi hùng, chạy trốn, cả đời tôi không thể quên tiếng thắt lưng da vụt lạnh lùng lên thân mẹ và những tiếng thê thiết mẹ kêu. Sau đó phải trưởng đồn cảnh sát đến ngăn bàn tay bạo lực của cha.

Kết quả hoà giải của đồn cảnh sát là: Cả hai bên đều có tổn thất, cả hai không nợ nần gì nhau cả. Ai còn gây sự sẽ bắt luôn người đó. Đám người đi rồi, cha tôi nhìn khắp nhà mảnh vỡ nồi niêu bát đũa tan tành, lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, cha tôi bất ngờ ôm mẹ tôi vào lòng khóc thảm thiết.

"Mẹ điên ơi, không phải là tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như tôi không đánh thì việc này không thể dàn xếp nổi, nhà mình làm gì có tiền mà đền cho người. Bởi nghèo khổ quá mà thành hoạ đấy thôi!". Cha lại nhìn tôi nói: "Thụ, con phải cố mà học lên đại học. Không thì, nhà ta cứ bị người khác bắt nạt suốt đời, nhé!". Tôi gật đầu, tôi hiểu.

Mùa hè năm 2000, tôi thi đỗ vào trung học với kết quả xuất sắc. Bà nội tôi vì làm việc cực nhọc cả đời mà mất trước đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Cục Dân Chính khu tự trị Ân Thi (Hồ Bắc) xếp nhà tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, mỗi tháng trợ cấp 40 tệ. Trường tôi học cũng giảm bớt học phí cho tôi, nhờ thế tôi mới có thể học tiếp.

Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn đi làm thuê 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi đặt lên vai mẹ, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa cho mẹ mang đi. Hai mươi ki lô mét đường núi ngoằn ngoèo ruột dê làm khổ mẹ phải tốn sức ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào. Ngoài tình yêu mẫu tử ra, tôi không còn cách giải thích nào khác. Y học cũng nên giải thích khám phá hiện tượng này.

27/4/2003, lại là một chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ: "Ngọt quá, ở đâu ra?" Mẹ nói: "Tôi... tôi hái..." không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ: "Mẹ, mẹ càng ngày càng tài giỏi!". Mẹ cười hì hì.

Trước lúc mẹ về, tôi theo thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập trước kỳ thi cuối cùng của thời phổ thông. Ngày hôm sau, khi đang ở trên lớp, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi tôi, mẹ tôi có đến đưa tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói đưa rồi, hôm qua mẹ về rồi.

Thím nói: "Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!" Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không đi lạc đường? Chặng đường này mẹ đã đi ba năm rồi, có lẽ không thể lạc được. Thím hỏi: "Mẹ mày có nói gì không?" Tôi bảo không, mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi. Thím đập hai tay:" Thôi chết rồi, hỏng rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!" Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi đi men theo đường núi về tìm. Đường về quả thực có mấy cây đào dại, trên cây chỉ lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả.

Chúng tôi cùng lúc nhìn thấy trên thân cây đào có một vết gãy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước. Thím nhìn tôi rồi nói: "Chúng ta đi xuống khe vách đá tìm!" Tôi nói: "Thím, thím đừng doạ cháu...". Thím không nói năng kéo tôi đi xuống vách núi...

Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành đám màu đen nặng nề. Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi: "Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ... Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào..." Tôi sát đầu tôi vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá dại trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi.

Ngày 7/8/2003, một trăm ngày sau khi chôn cất mẹ, thư gọi nhập học dát vàng dát bạc của Đại học Hồ Bắc đi xuyên qua những ngả đường mẹ tôi đã đi, chạy qua những cây đào dại, xuyên qua ruộng lúa đầu làng, "bay" thẳng vào cửa nhà tôi. Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào đầu ngôi mộ cô tịch của mẹ: "Mẹ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi, MẸ có nghe thấy không? MẸ có thể ngậm cười nơi chín suối rồi!"





Vietbao (Theo: tintuconline.com.vn)

Thứ Ba, 11 tháng 5, 2010

Con chim bồ câu - MS 22

Thứ Hai, 10/05/2010, 22:17 (GMT+7)
Truyện ngắn dự thi văn học tuổi 20

Con chim bồ câu

TTCT - Tôi vô tình cán chết một con chim bồ câu. Bồ câu là loài chim hiền lành nhưng không chậm chạp. Con bồ câu tôi cán chết là một con bồ câu què. Theo phản xạ, nó chạy vài bước rồi bay. Nhưng cái chân què đã không chạy được. Tôi vô tình cán chết nó.

Nàng ngồi sau, cặp mắt lộ ra trên chiếc khẩu trang hốt hoảng, sợ sệt. Chẳng có giọt máu nào như một vụ tai nạn kinh khủng. Con chim bồ câu tội nghiệp nằm đè lên máu của chính mình, chỉ thấy một xác chết rũ rượi. Người đi đường không hề biết tôi vừa gây ra cái chết cho chú chim câu, có biết họ cũng chẳng thèm quan tâm.

Một con bồ câu hay một con ve, con gà chết... thì có nghĩa lý gì trong thế giới ồn ào này chứ? Không ai xúm lại kết tội kẻ đã cán chết một trong những loài đó cả. Phải chăng vì chúng là những con vật quá hiền lành, chưa bao giờ biết nói? Hay người ta giống như tôi, nghĩ rằng làm chết một con vật bé nhỏ thì chẳng có tội tình gì?

Mọi sinh vật có mặt trong thế giới này đều có thể chết bằng những lý do vô tình hay cố ý. Mà cuộc sống thì đã đau đầu bởi biết bao sự kiện. Sự kiện nào quên được thì hãy nhanh chóng quên đi.

Tôi có chạnh lòng đôi chút với vụ tai nạn nhưng rồi tôi đã tha thứ cho mình. Còn nàng hình như không? Nàng im lặng sau lưng tôi, tay bấu vào yên xe. Trái tim phụ nữ mỏng manh hơn đàn ông nên dễ xúc động và khó quên. Nhìn qua kính chiếu hậu tôi thấy đôi mắt nàng ngơ ngác như vừa chứng kiến một biến cố không lời. Chiếc xe chúng tôi bình thản chạy giữa buổi trưa đắt đỏ.

Rồi cũng tới lúc tôi cưới nàng. Thông báo cho bạn bè, rồi nhậu nhẹt. Trên cái bàn tròn, ai đó gọi những con chim bồ câu nướng lu. Những con chim bồ câu sấp cánh nằm trên đĩa, váng mỡ, vàng rụm. Trong cái chết chúng cũng phải xếp hàng và chịu sự chi phối của nghệ thuật sắp đặt. Cứ như chúng sinh ra để dâng hiến.

Không biết vì nhớ hay quên, tôi và nàng không đụng tới một con bồ câu nướng lu nào. Nàng ngồi im, tròn mắt nhìn chiếc đĩa. Rồi như không thể chịu được, nàng chạy ra phòng vệ sinh nôn tơi tả.

- Chúc mừng hai bạn đã can đảm ăn cơm trước kẻng!

Cả bọn lao nhao. Ủa, đó là dấu hiệu của ăn cơm trước kẻng hả? Nhưng “cơm” đâu mà ăn? Tôi... chưa làm gì mà! Tôi cụng ly, cười nửa miệng, ngơ ngác như một công chức mới nhận việc.

Chở nàng về nhà, tôi dềnh dàng ở cổng.

- Sao thế anh? - Nàng mệt mỏi hỏi.

- Em không sao chứ? - Tôi hỏi.

- Ừ, em chỉ hơi mệt.

- Vì sao?

- Sao anh lại hỏi thế?

- Vì sao em lại mệt? - Tôi không biết rằng tự nhiên giọng tôi lại gay gắt.

- Em mệt một chút, thế thôi.

- Phải có lý do để người ta mệt chứ? Ví dụ như phải... có gì chẳng hạn - Tôi run run.

- Em không hiểu? Sao anh lại cáu vì em mệt chứ? Em không có quyền mệt sao?

Có, em có quyền. Tôi gục gặc đầu. Khi đã rồ máy chạy đi tôi còn nghe tiếng gọi của nàng phía sau. Nàng đang hét lên thắc mắc hay phân bua điều gì?

Đó không phải là lần cãi nhau duy nhất trong cuộc tình sắp đến đích của chúng tôi. Càng tiến gần hôn nhân, chúng tôi càng cãi nhau nhiều hơn. Hình như có một lời nguyền của một bà phù thủy dành cho những người sắp trói buộc tự do của mình với nhau suốt đời. Họ phải trải qua những cuộc cãi vã te tua, có lý do hay thậm chí là chẳng có lý do nào hết.

Tôi hẹn nàng đi ăn trưa. Nàng tới, vẻ mặt dàu dạu vì mệt. Lúc nào cũng mệt! Tôi chán lắm rồi. Và trong bóng đêm, khi tôi tìm làn môi nàng, nàng mệt mỏi đẩy tôi ra, vẻ mặt buồn rầu, khó chịu.

- Em lại mệt hả?

- Không, em chán.

- Sao lại chán?

- Đừng hỏi những câu hỏi vì sao nữa. Em chán lắm rồi - Nàng bỗng dưng hét lên.

- Nhưng em chán cái gì? Phải có lý do chứ?

- Mọi thứ đều phải có lý do sao? Anh nhầm rồi. Có vô số thứ chẳng có lý do quái nào hết - Nàng hét lên bằng giọng hoảng loạn.

Đó là giây phút tôi cảm thấy mình mãi mãi không hiểu được phụ nữ. Con người nào trong nàng mà tôi quen biết? Cô gái hiền lành, rụt rè, nói năng nhát gừng như không quan tâm đến chính kiến, suy nghĩ của mình, hay cô gái hoảng loạn, sắp nổi loạn để đấu tranh một điều gì đó? Mà nàng muốn đấu tranh cho điều gì?

- Vì sao? - Tôi buột miệng hỏi.

- Chết tiệt! Đừng hỏi vì sao nữa - Nàng đã biến thành một con người máu lửa.

- Nhưng anh không hiểu.

- Em là ai trong anh?

- Sao em lại hỏi thế?

- Trả lời câu hỏi của tôi đi.

- Người tình, vợ chưa cưới.

- Tôi không hỏi chức danh. Tôi hỏi trong anh tôi là ai?

- ...

- Không trả lời được, phải không? Vì tôi là cái bóng. Tại sao tôi phải nghe lời anh. Hay nói đúng hơn, tôi phải chịu sự sắp xếp của anh cho cuộc đời tôi? Tôi phải mặc áo màu gì trong ngày cưới, chọn nhà hàng nào, ở với anh phải tuân theo một số luật lệ... Tôi chẳng bắt anh tuân theo luật lệ nào hết. Còn tôi, tại sao phải sống theo ý thích của anh?

- Tất cả những đôi tình nhân đều vậy mà. Hòa hợp thì mới ở bên nhau được.

- Tôi ghét điều đó. Tôi đã biến thành cái bóng của đám cưới và hạnh phúc. Một cái bóng.

- Hay lắm! - Tôi nói - Em viết kịch bản cho đoạn kịch này phải không?

- Anh nói gì?

- Cô đã làm điều đó với người khác. Tôi linh cảm điều đó. Thật xấu xa!

- Điều gì?

- Ăn cơm trước kẻng.

- Anh nghĩ thế ư? Bao lâu? - Nàng xúc động mãnh liệt.

- Hai tuần trước. Trong bữa tiệc.

- Chúng ta không tin nổi về nhau. Thật tàn nhẫn! Anh không tin tôi, còn tôi không tin tình yêu anh dành cho tôi.

Đó là những lời cuối cùng tôi nhớ khi chúng tôi còn đứng giáp mặt nhau. Không có đám cưới nào để chúng tôi có dịp giáp mặt nhau trong bữa cơm, khi cùng thay quần áo hay âu yếm nhau trước khi đi làm.

Linh cảm của tôi đã thành hiện thực. Tôi không hiểu phụ nữ! Người phụ nữ gần gũi ở bên cạnh mà tôi đã khám phá giống như một người xa lạ. Nàng là ai? Cô thiếu nữ tóc ngắn ngồi bên thềm nhà, hỏi tôi kiểu tóc mới của nàng có dễ thương không. Người ngồi sau lưng, ôm eo tôi, dựa đầu vào lưng tôi đầy tin cậy. Tôi nhìn vào mắt nàng, chỉ thấy yêu thương và dâng hiến. Tôi không thấy một tia sáng nhỏ nhoi mà tất cả những người phụ nữ như nàng đều có. Tia sáng thông minh, muốn được là mình. Nàng là ai?

Có thể tôi đã nhìn thấy nàng là ai khi tôi là một chàng trai xa lạ và nàng là một cô gái xa lạ. Tôi bị hấp dẫn bởi những tính cách của nàng, một thiếu nữ duyên dáng, cá tính, hơi bốc đồng nhưng nhiều ước mơ và khao khát. Tôi đã nhớ vẻ nàng cười khi nhìn một tia nắng lạc. Nhưng khi đã thuộc về nhau thì tôi quên mất những chi tiết ảo ảnh đó.

Tôi thích có một người yêu ngồi sau lưng mình, tóc dài, dáng thon, ăn nói dễ thương, nhỏ nhẹ. Tôi thích nàng cười với tất cả bạn bè tôi dù cho trong số đó có những tay ăn nói xóc họng, làm nàng ngượng ngùng. Nàng ít khi phản kháng vì không bao giờ có ai nghĩ rằng phản kháng còn có đất sống trong cái vẻ dịu dàng đến từng chi tiết kia. Tôi đã vui vì nàng là một con búp bê mà quên mất trước đây nàng còn là một thiếu nữ cá tính.

Nhưng sao gần đến hôn nhân nàng mới phản kháng để đòi lại một số quyền không đáng có ấy? Tôi không thấy nhiều cô gái hành động như nàng. Nàng phản kháng mà không có lý do, không cần lý do, đòi những quyền mà mới nói ra người ta đã thấy cao xa trong cuộc sống này. Đòi là mình, không làm cái bóng. Đó là những điều hết sức trừu tượng. Trừu tượng đến nỗi chúng tôi phải xa nhau.

Sau đám cưới hụt, chúng tôi còn gặp nhau vài lần trên phố. Một lần chờ đèn đỏ, tôi và nàng đứng cạnh nhau. Bên kia đường là một quán chim nướng lu. Không biết những con chim đang sấp cánh nằm xếp hàng chờ được thiêu ấy là chim cu hay bồ câu? Nhưng mùi nướng thì ngào ngạt như nhau. Cái màu vàng óng, váng mỡ, thơm giòn rụm. Người chờ đèn đỏ đều bất giác ngó qua, chảy nước miếng. Trước mặt tôi là một sư cô. Sư cô trẻ như nàng, nhìn qua đường, rồi bất giác cúi xuống, lầm rầm đọc kinh. Sư cô đọc kinh vì nhớ Phật hay để cầu siêu cho những con chim tội nghiệp ấy?

Ba mươi giây đèn đỏ. Bụi, tiếng chửi nhau khi ai đó không chịu nổi cảnh chen lấn. Mùi khói xe, mồ hôi người, mùi chim nướng. Sư cô cúi đầu đọc kinh. Còn nàng để xe, đi bộ vào lề, ngồi và ói. Nàng không chịu nổi mùi khói xe?

Đèn xanh. Dòng xe ào ào lũ lượt. Tôi muốn đứng lại mà chẳng còn chỗ để quay đầu xe. Cứ như tôi phải tiến lên như một sự thật tàn nhẫn. Mọi người tiến lên, nhưng vẫn chưa thoát khỏi chửi rủa. Tôi để chiếc xe mình trôi theo cái dòng chảy đèn xanh. Hình ảnh phía sau lưu trong óc tôi. Chiếc xe của nàng chơ vơ giữa đường, còn chủ nhân của nó đang nôn trối chết bên vỉa hè. Khi quay đầu xe lại được thì hình ảnh ấy không còn nữa. Cứ như nó đã bị xóa trong bộ nhớ của chiếc máy vi tính. Nhưng khác chứ. Tôi có chui vào thùng rác thì cũng không phục hồi được. Nhưng tiếng cầu kinh của sư cô chắc vẫn còn rơi lại đâu đó trên vỉa hè bụi bặm.

Rất lâu sau đó, khi đã lấy vợ tôi mới gặp lại nàng. Nàng gầy quá nhanh khiến tôi xót xa. Chúng tôi gặp nhau trong một quán nhỏ. Hình ảnh mong manh mới mẻ của nàng khiến tôi thấy nàng giống như một chú chim bồ câu mà ai đó đã thả bay trong bầu trời này. Suốt bữa cơm nàng chỉ gọi những món chay. Tôi sửng sốt nhận ra nàng chưa quên con bồ câu què bé nhỏ.

Tôi - kẻ cán chết nó - đã quên và cũng đã tha thứ cho mình. Nhưng nàng - kẻ ngồi sau, chứng kiến cái chết đó từ đầu đến cuối - vì có trái tim mỏng manh, dễ rung động nên nàng bị ám ảnh. Nàng không quên khi con chim què quay lại nhìn hai con người ngồi trên chiếc xe đã cán chết nó, ánh mắt hốt hoảng, ngơ ngác chứ không hận thù. Nàng không quên nó ngã xuống, dập đầu trên vũng máu của mình.

Không ai dọn cái xác đó. Con chim bồ câu tội nghiệp tiếp tục bị cán chết bởi những bánh xe lơ đễnh, nhưng nó không còn chạy trốn hay phải hốt hoảng nữa. Và nắng đã thiêu khô cái xác ấy, trước khi nó quên lãng vào bụi đường.

Nàng không quên. Hình ảnh ấy sống động tới mức nàng không thể nhìn cái chết của những con bồ câu nướng nằm trên đĩa. Nàng không chịu được mùi thơm từ cơ thể trần trụi của chúng. Nàng đã ăn chay.

Nhưng tại sao nàng lại chia tay tôi? Có dính líu gì tới con chim bồ câu hiền lành kia chứ? Lẽ nào nàng bị sốc khi con chim trước cái chết mà không thể nói. Nàng sợ mình cũng giống nó? Là một bóng ma. Không nói, không thổ lộ tình cảm hay tâm tư mình, không đấu tranh mà sống trong hiền lành, nhịn nhục. Tôi đã quên mất những gì thuộc về nàng, nhất là những khát vọng sâu kín nhất. Nàng sợ mình sẽ giống như con chim bồ câu, không còn biết nói, dù để phản kháng hay kêu ca.

Nhưng hình như những bí ẩn của nàng còn đi xa hơn thế. Mãi sau này, trong các tin buổi sáng viết về một kẻ lang thang nào đó chết vô danh bên đường, tôi mới lờ mờ hiểu được những nỗi sợ đã ám ảnh nàng. Trái tim yếu ớt của nàng linh cảm con chim bồ câu không phải là sinh vật duy nhất tạm biệt thế giới tươi đẹp này trong cô đơn và thờ ơ. Nàng hoảng loạn trước hình ảnh mà vô số người cho là bình thường ấy.

Dĩ nhiên, rất ít thiếu nữ giống như nàng. Sự ngạc nhiên đó khiến tôi tưởng rằng nàng là một chú chim bồ câu hiện hình. Vì giờ đây nàng mỏng manh, mong manh, bí ẩn, buồn buồn như con chim bồ câu xanh xao.

Mỗi lần gặp lại nàng, trái tim tôi lại bị bóp nghẹn. Trong phút chốc, máu không đủ dồn về tim nữa. Tôi sẽ chết nếu nàng đứng lâu trước mặt tôi. Bao giờ, giống như một kẻ bị bỏ rơi, câu hỏi mà tôi muốn hỏi nàng nhất vang lên trong thâm tâm: “Sao em lại bỏ rơi anh? Sao em lại chia tay anh?”. Nhưng tay nàng không đeo nhẫn và sự thật hiển nhiên là tôi đã bỏ rơi nàng.

Đến tận bây giờ, để đổ lỗi cho cuộc tình buồn của mình, tôi vẫn khăng khăng cho rằng chính những con chim bồ câu đã chia lìa chúng tôi. Tôi chờ chúng phản kháng, nhưng loài bồ câu cam chịu trong yên lặng.

Hình như loài bồ câu không cần gì hơn khi có một sư cô cầu nguyện cho chúng và một thiếu nữ mong manh đã ăn chay vì chúng.

Nhưng tôi, tôi đã mất mãi mãi một người tình!

TRUYỆN NGẮN DỰ THI: MS22