Thứ Bảy, 27 tháng 3, 2010

Thuở tiên Đồng Khánh

Trần Kiêm Đoàn

THUỞ TIÊN ĐỒNG KHÁNH
Ở quê nghèo, những đứa bé được học dăm ba chữ trường làng, rồi lớn lên làm ruộng, cưới vợ, sinh con, nuôi con và làm ôn, mệ theo một vòng quay gian nan mà êm đềm như những cây đa và đình làng thiên cổ. Ngày tôi bịn rịn xa làng, lên Huế học, nhìn mẹ cơm đùm gạo bới, nước mắt lưng tròng, dặn dò “ham học, đừng ham chơi” mà thương mình và tội mẹ quá. Đơn giản thế thôi, nhưng trong con mắt người làng, hình ảnh “lên dinh học” vẫn là một ước mơ ngoài tầm tay với. Ruộng lúa nương khoai chỉ vừa vặn cho một đời cần lao không mơ ước. Một cơn bão đầu mùa, một trận lụt lớn, một vụ mùa bị sâu rầy, hạn hán… là chỉ lo cho ngày một ngày hai còn chưa đủ sống, nói chi đến tương lai.

Quốc Học, Đồng Khánh là hai ngôi trường lớn không chỉ của Huế, mà cả miền Trung gian nan sỏi đá. Hình ảnh trường xưa không hẳn là lớn qua dáng vẻ mà lớn như những dòng thác quy tụ ước mơ. Mỗi chàng học trò Quốc Học và mỗi nàng nữ sinh Đồng Khánh đều có riêng một giấc mơ vĩ đại cho đời mình. Vĩ đại là sự hóa thân lãng mạn của cái đẹp đầy ảo ảnh nên chỉ có trong tưởng tượng. Vì tưởng tượng nên ai cũng có quyền tự do ôm ấp mộng tưởng cho mình, cho người, cho ai đó ở một ngày mai chưa định hướng.

Tôi vào học trường Quốc Học giữa những năm đầu 1960 đầy sóng gió của Huế. Trong nếp sống nghèo mà thanh đạm, Huế tìm quý phái. Trong khốn khó, Huế chịu khó chịu thương. Trong chiến tranh, Huế muốn hòa bình. Môt sự mâu thuẫn mà lại nhất quán vì khổ đau và hạnh phúc thường biến hiện như ảo ảnh phù du với người dân Huế. Con trai làng lên Huế học như tôi là một anh Huế nửa mùa nên chỉ chia được một nửa di sản và di lụy của Huế: trong vui đã có nửa buồn, trong gần đã có nửa xa, trong thực đã có nửa mơ và trong yêu đã có nửa sợ.

Tình yêu chín hườm của học trò Huế thường mở ngõ ra vào lớp đệ tam. Bốn năm cuối cùng trung học thì chỉ có năm đệ tam – lớp mười – là còn có chút thời gian mơ mộng. Học trò mà bén lửa yêu đương vào lớp đệ tứ bận học thi đít-lôm; đệ nhị bận học thi tú tài bán phần; đệ nhất bận học thi tú tài toàn phần thường dễ vỡ như bọt xà bong vì tình yêu càng nồng nàn thì càng dễ bị lửa thi hỏng đốt cháy ước mơ. Hỏng thi đẹp chi cũng xấu; thi đậu xâu xấu cũng ưng! Huế mơ mộng như thơ; nhưng cũng thực dụng như đếm.

Năm đệ tam Quốc Học, tôi ở trọ nhà ông anh họ trên đường Lê Đình Dương. Đây là con đường nhà giàu quý tộc một thời của Huế. Nếp sông kiểu Tây còn xa lạ với người bình dân quanh Huế. Lần đầu được ngủ giường nệm, phủ “ra” trắng tôi trằn trọc suốt mấy đêm liền vì cái lưng quen với phản gỗ, giường tre, chiếu lát không chịu thỏa hiệp với giường Tây. Sau một tuần hơi quen đi thì nỗi phiền hà sáng sáng phải chạy quanh mấy mép giường nhét chỗ nầy, hụt chỗ kia, trải lại cái mền, cái “ra” cho thẳng băng để chị Cháu dọn phòng khỏi la cũng đủ tháo mồ hôi hột. Không ngờ, tôi thuộc dòng chàng trai nước Việt ngộ biến tòng quyền, nên đã khám phá ra được con đường xưa chân đất. Ngủ dưới nền xi măng vừa mát, vừa khỏe, vừa hợp với tâm hồn lười biếng vì sáng sớm ra chẳng có gì để dọn dẹp. Ở nhà sang, nền bóng như gương, phủi chút bụi trần gian trên lưng trần, gối sách ngủ say là xong chuyện. Sáng ra, khỏi làm gì cả mà giường nệm vẫn tinh tươm. Mỗi sớm mai, lại có chút thời gian thưởng thức nắng vàng, mây trắng và chim kêu ngoài khung cửa sổ. Ôi! Hạnh phúc nằm ngay dưới cái lưng trần mà có mấy người khám phá. Ngày nào, chị Cháu cũng khen lấy khen để và mang tôi ra làm… tấm gương quên tráng thủy cho các cô chiêu, cậu ấm ở trong nhà, thích dắt chó đi chơi hơn là xếp mền dọn chiếu mỗi buổi sáng.

Người ta thường nghĩ rằng, hễ gần giàu thì sang, gần quan thì quý. Nhưng tôi ở xóm giàu, la liệt nhà quan mà không cảm thấy lây sang, nhiễm quý ở đâu cả. Trong lúc những cô cậu học trò học trường Tây, mặc áo đầm, đồ tây le lói; lại có xe nhà, xe xích lô đưa đón đi học, làm tôi chỉ thấy mình càng nỗi rõ hơn vẻ lạc lõng của tre trúc trong khu vườn đầy những loài hoa vương giả. Lớn lên giữa khung cảnh nông thôn, quen chia nhau hương đồng mát rượi khi nắng lên, tôi chưa quen được những khu vườn bờ rào kín mít nơi đây. Nó có vẻ như người ta đang giữ riêng cả những nụ cười và bóng tối. Sự nghèo nàn hào phóng hơn sự giàu sang vì nó chan hòa dễ dãi mà chẳng có gì sợ mất đi khiến phải gìn vàng giữ ngọc.

Cô bé nhà đối diện, với mái tóc đen dài, dáng thanh thanh; khi áo xanh, khi áo trắng, khi áo hồng ẩn hiện sau những mảng trống cây xanh. Con hạc trắng bay về bồng lai chỉ là một ý niệm đẹp vì chẳng ai thấy rõ. Sự quý phái và trang đài của người con gái Huế chỉ bắt đầu từ một bóng dáng. Bóng dáng thực thực hư hư như một ảo ảnh soi bóng dòng sông. Tôi chưa hề thấy mặt cái bóng ấy vì chiếc xe Peugeot 203 đen nhánh luôn luôn vòng quanh ra sân sau để đón cô đi học. Mỗi sáng tôi lầm lũi đến trường, không buồn ngẫng lên nhìn cho rõ mặt cái xóm nhà quan chung một con đường mà dường như không chung nhịp sống với mình. Dù trong giấc mơ hoang tưởng nhất, tôi cũng chưa bao giờ nghĩ rằng cô bé kia sẽ là ai bằng xương bằng thịt trong cuộc đời mình. Sự sang cả vẫn thường đánh lừa cảm xúc. Tôi cảm thấy cô ta huyền hoặc và xa vời như một nàng tiên nhỏ.

Tuổi trẻ Quốc Học - Đồng Khánh bị già đi vì những cơn mưa Huế. Trời lạnh, đường trơn trong những cơn mưa lầm lũ làm cho người ta dễ sống bằng ước mơ như bầy sóc mùa đông ôm vỏ hạt dẻ nằm trong hốc cây khô đợi mùa xuân tới. Mưa tỉ tê và nếp sống phẳng lặng tạo ra một tâm lý tình cờ: đợi tình cờ, mong tình cờ, níu lấy tình cờ để tìm gia vị cho một điệu sống hướng nội, sâu lắng tưởng như tẻ nhạt. Nhưng cái khung giới hạn càng bó lại, ngọn lửa tình cảm tự nhiên càng bùng lên sau lớp vỏ trầm lặng tạo thành nếp lãng mạn thâm cung của Huế. Những lá “thơ” tình chưa đủ thấm vào những mảnh hồn thiên cổ của tình yêu Huế. Yêu là phải đẹp và buồn như thơ và tiểu thuyết.

Một xế chiều mưa, khung cửa kính mờ in bóng một người đang nép sát vào tường trú mưa. Tôi đi vòng ra cửa trước và thấy một người con gái đứng đó. Dáng vẻ sợ hãi và ngần ngại hiện lên trên khuôn mặt trắng xanh lấm tấm nước mưa. Đôi mắt mở lớn như đang giận ai và chờ đợi ai một điều gì khó nói. Anh con trai làng trong tôi hơi hoảng hồn khi một mình đối diện với một người con gái đồng trang lứa. Tôi nhìn tới, nhìn lui kiếm ai để dựa thêm lòng can đảm, nhưng những ngôi nhà lớn cửa đóng then gài kín mít và con đường mưa vắng hoe, vắng hoắt. Hết thảy con trai trường Quốc Học mà lúc nầy lôi ra từng gã một, thả giữa hoàn cảnh nầy cũng đớ miệng, ấp úng không ra được nửa lời như tôi.

May thay, người con gái Huế – theo tin đồn chưa có kiểm chứng – khôn đáo để gấp mười con trai Huế, mà cụ thể là người đang đứng đó, lên tiếng:

- Ấy… ấy giúp mình cái ni được không?

Ngó lui, ngó tới lần nữa chẳng thấy ai. Tôi biết “ấy” là mình!

Dẫu khù khờ hay thông minh nhất tôi cũng không thể tìm ra một tiếng xưng hô nào với người lạ trước mặt hay hơn là… “Ấy”! Tôi hỏi:

- Ấy muốn mình giúp chi rứa?

Và cứ thế, hai bên Ấy… Mình; Mình… Ấy một hồi tôi mới hiểu ra rằng, cô ấy tên là Thủy Tiên. Ở nhà gọi Bé. Cô khóa cổng nhà, bỏ quên chìa khóa bên trong. Khu nhà tường cao bốn phía lại không có ai ở nhà nên không mở cổng vào nhà được. Cô nhờ tôi có cách nào leo vào phía trong là mở cửa được. Vốn con nhà vườn, leo trèo là sở trường nên tôi chẳng khó khăn gì để vin vào các cây lớn cạnh tường để nhảy vào bên trong. Nhưng khi mới từ cây trứng cá bên ngoài, ló mặt lên khỏi tường thì con chó Bẹc-giê to tướng đã chồm tới sủa vang. Tiếng Thủy Tiên từ bên ngoài không sai khiến được. Tôi ngần ngừ đề nghị giúp Thủy Tiên leo cây trứng cá vượt tường trước. Mưa dầm dề, gió lạnh. Không có sự chọn lựa nào khác. Có những việc làm hay hành động nếu xảy ra ở cảnh đời thường sẽ trở thành bất thường và khó khăn gượng ép, nhưng lại trở thành cần thiết và diễn ra tự nhiên lúc lâm nguy. Để đưa Thủy Tiên qua được bức tường cao có gắn đinh nhọn, một mình cây trứng cá bìa tường không đủ sức. Cần phải có những nắm tay, những đưa chân, những níu, kéo, ôm, đẩy, tựa, vác… của cả hai đứa dưới cơn mưa dầm ướt sủng; chúng tôi phải phối hợp và tiếp ứng rất khéo léo và nhịp nhàng với tâm hồn trong sáng của Adam và Eva thuở chưa ăn trái cây tri giác mới đưa Bé qua được bức tường. Khi cánh cổng nhà Thủy Tiên đã được mở rộng, thực tại trở về. Trái táo tri giác chỉ rơi nhẹ xuống đất nhưng cũng đủ cho cô bé xứ Huế đỏ mặt trở lại vị trí trấn thủ canh phòng muôn thuở của xứ nầy. Cái giọng lí nhí – chết gí con trai – rất Huế, cất lên thanh và ấm trong cơn mưa chỉ còn lất phất:

- Cám ơn lắm hỉ!

Tôi cố tảng lờ cái bàn tay sây sát và cục u nơi mắt cá đang còn đau điếng của mình để đáp lại cô láng giềng với một tinh thần rất nam tử hán:

- Có chi mô, giúp chút xíu thôi mà!

Cuộc vượt tường chiều mưa xứ Huế đã khiến hai ốc đảo biết có chung một biển cả quanh mình. Thủy Tiên xuất thân từ trường Jean d’Arc, đang học đệ tam C, ban văn chương, Đồng Khánh. Tôi học đệ tam B, ban toán, Quốc Học. Tôi nói tôi nể cái lãng mạn bay bướm của dân học văn chương. Thủy Tiên nói cô nể cái khoa học chính xác của dân học toán. Cái dễ thương và dễ ghét nhất của tuổi học trò là mới đứng ở sau khung cửa sổ hé nhìn trời bao la mà cứ ngỡ như mình đang được chắp cánh chim bay lồng lộng.

Dân văn chương sợ toán như sợ ăn xôi nấu nhão nên gặp dân ban toán hạng làng nhàng như tôi cũng đủ cho dân ban C nể mặt rồi. Tuy cùng tuổi và học cùng cấp lớp, khác ban, nhưng tôi lại có khiếu văn chương hơn là khoa học, thích đọc Bách Khoa, Phổ Thông và sách của Lá Bối, Ca Dao, An Tiêm xuất bản hơn ngồi giải toán ở nhà. Tuy chỉ nói chuyện văn chương, nghệ thuật theo lời tán của mấy ông nhà văn, nhà thơ trong sách báo, nhưng thế cũng đủ làm cho cô học trò trường Tây đang còn ngờ ngợ với tiếng mẹ đẻ xao lòng.

- Nghe như văn sĩ nói í!

Được cô láng giềng xinh đẹp khen có cốt cách văn nhân, có gã con trai bình thường nào mà không cảm thấy hướng nhìn của mình phiêu lãng hơn và mái tóc mình bềnh bồng thêm một tí mây bốn phương trời. Tôi nhường miếng ngon cho Bé nhưng thực sự là đang gắp lên chén mình:

- Bé học ban C mới là văn sĩ tề.

Dấu hiệu… xao lòng đầu tiên là Thủy Tiên bắt đầu tự đi học bằng xe đạp chứ không bằng xích lô hay xe ô tô có người đưa kẻ đó như trước nữa. Tôi thuộc loại khá trai, con nhà làng, học không tệ nên đạp xe đạp bên cạnh Thủy Tiên trên đường Lê Lợi đến trường vẫn thẳng và xanh vô tư như những hàng long não. Cảm xúc người con gái Huế như ngó sen dưới đáy hồ. Thường lặng lẽ nẩy mầm trong lòng đất, nhưng khi đã nhô lên khỏi mặt nước thì hoa lá rộn ràng chế ngự và phủ kín cả mặt hồ ngày tháng nào không hay.

Con trai Huế thường kháo nhau rằng, con gái Đồng Khánh khôn lanh đáo để vì ngày hai buổi đi học từ khắp nơi trên con đường Lê Lợi dọc sông Hương, được tưới tẩm nắng gió can trường từ Trường Sơn và rủ bỏ được cảm xúc nông nổi theo nước sông Hương trôi về Nam Hải. Còn con gái Jean d’Arc học trường Tây ngơ ngác như nai vàng vì thế giới nằm gọn trong bốn bức tường học viện thâm cung. Đó là điều khó hiểu cho tuổi học trò mới lớn vì tình cảm là sen mới nhú khỏi mặt hồ, thấy nắng là nắng, mưa là mưa chẳng có gì cân đo so sánh:

- Tự nhiên, Bé không còn thích Cuối tuần và Chủ Nhật nữa.

- Tại vì Bé thích đi học hoài cả tuần thôi hả?

- Không phải Bé thích học mà chỉ thích mỗi sớm đi xe đạp tới trường.

Thủy Tiên nói điều bâng quơ mà sao tôi cảm nhận được nó thật như chính mình đang nói. Ngày trước, tôi chỉ mong tới chiều thứ Sáu là chạy nhanh về làng với mẹ, với bạn bè. Nhưng cái náo nức chiếm ngự cả lòng tôi thay đổi: muốn đạp xe đạp song song bên cạnh Bé đến trường hay đến bất cứ nơi nào có Bé.

Mùa Xuân của tuổi 16. Thế giới quanh mình đổi khác. Khuynh hướng tình cảm lứa đôi là sự thức dậy sau một giấc ngủ dài của tuổi thơ. Sự thức giấc của tình yêu là mặt trời mới mọc cho mỗi cuộc đời. Khi yêu, người ta chỉ còn sống cho mình một nửa. Nửa kia là sự lo sợ: lo hoàn cảnh sẽ chia xa; sợ người mình yêu thay đổi. Một buổi sáng tháng Chạp, Huế mưa phùn lất phất. Trời lạnh buốt. Vẻ phờ phạc và nụ cười buồn của Thủy Tiên như đang ưu tư điều gì chưa giải được. Tôi hỏi, Thủy tiên kể chuyện:

- Hôm qua, có một bà già lạ, tới nhà Bé đứng ngoài cổng gọi hoài. Bà không biết bấm chuông cửa nên o người làm tức mình thả con chó bẹc-giê ra sủa đuổi bà đi. Rủi quá! Cổng sắt không khóa kỹ nên con chó lách ra khỏi cửa và chồm lên bà ta. May Bé và o người làm chạy ra kịp nên con chó chỉ mới cắn đứt vạt áo và quào một chút lên tay bà ta thôi. Thấy bà già nhà quê không lo tay đau mà ôm vạt áo rách đứng chảy nước mắt tội nghiệp quá. Bé xin lỗi và mời vào nhà mà bà không vào. Bà lấy tay chùi nước mắt rồi lẵng lặng bỏ đi. Bà đi một đoạn rồi, Bé mới nhớ là mình có cái hộp champagne đựng tiền lì xì Tết của mấy bác, mấy cô chú ở nước ngoài và bạn ba me ở mấy tỉnh xa về cho. Bé không đếm, không dùng, bỏ quên lâu ngày trong hộc tủ. Bé chụp cái hộp và chạy theo nhét vào cái giỏ xách tay của bà nhà quê. Bà không nhận. Bé phải năn nỉ: “Mệ ơi, con có chút tiền lì xì để dư không tiêu, con đưa mệ để mệ thêm may cái áo khác. Tiền dư thì mệ dùng hay làm chi tùy mệ, không đủ thì mệ bù cho con với nghe. Con chỉ có chừng nớ thôi mệ nợ.” Gần Tết rồi, Bé cứ lo lo, lỡ bà ta không đủ tiền may áo khác thì ui chao là tội.

Nghỉ Tết, tôi về quê với mẹ, với gia đình. Lần đầu, tôi không còn háo hức với áo mới ngày Tết. Tôi hơi ngạc nhiên vì năm nay nhà mình ăn Tết to hơn mọi năm. Nhà quét vôi mới. Trên bàn thờ, quả phẩm to hơn và có bộ lư đồng mà mẹ tôi tính tới tính lui mấy năm rồi chưa sắm được. Hình như năm nay ai cũng có áo quần mới. Tất cả đều là hàng sang so với khả năng gia đình.

O Cúc, người giúp việc từ đời mẹ, đến đời con đã thực sự trở thành một thành viên ruột thịt của gia đình tôi. Nhận được vẻ tò mò của tôi, o cười xởi lởi, kể chuyện:

- Bữa nớ, gánh đồ đi Tết lên nhà chú, tui đi lạc qua nhà trước mặt bị chó Tây ra chồm. Tui bị rách áo, rách tay. May phước đức ông bà có một cô trong nhà chạy ra cứu, lại còn cho tui tiền sắm Tết dư giả mà còn sợ thiếu. Ui chao, con gái nhà ai mà đẹp như tiên non bồng rứa thê.

Thì ra, “bà nhà quê” trong câu chuyện của Thủy Tiên là o Cúc.

Và trong câu chuyện dài về Huế, những “nàng tiên non bồng” Đồng Khánh một thời ấy vẫn không trốn mãi được trong thành quách rêu phong. Đời lao đao không đẹp hoài như những bài thơ Huế.

Sau ngày đảo chánh triều Ngô tháng 11 năm 1963, ngôi biệt thự đồ sộ của gia đình Thủy Tiên có vẻ gì như đang thay đổi. Những người trong nhà tôi đang ở xầm xì về chuyện gia đình Thủy Tiên “làm kinh tài cho cậu Cẩn.”

Rồi một cuối tuần, Thủy Tiên đột ngột hỏi: nếu tôi ở lại Huế, nghỉ về thăm làng một kỳ có được không. Hỏi lý do, Thủy Tiên nói là muốn rủ tôi đi chơi riêng. Lần đầu, hai đứa cùng đạp xe đạp song song ra khỏi con đường Lê Lợi dẫn tới trường. Ra khỏi thế giới học trò, hai đứa không biết đi đâu. Một nơi vắng, vắng quá thì sợ bị cho là… đồ trai gái hư thân. Gần cả buổi sáng, chúng tôi đạp xe loanh quanh đến lăng Tự Đức, Đồng Khánh lúc nào không hay. Xế chiều, vòng qua đồi Từ Hiếu. Đựng hai chiếc xe đạp ở mé lăng phía dưới thấp, chúng tôi đi bộ lên đồi thông. Trong tiếng cười, giọng nói và dáng vẻ của Thủy Tiên có chút gì vương vướng khó hiểu. Khi xuống đồi, tôi phải nắm tay Thủy Tiên để khỏi bị té. Bé để yên bàn tay trong tay tôi. Bàn tay lạnh quá. Tôi nói điều đó. Bé cười hiền, nói nhanh: “Tay lạnh mà tim ấm!” Hai đứa dừng lại sau chân ngôi tháp cổ giữa chân đồi. Khi hai mặt gần quá, đủ để nhìn thấy bóng những ngọn thông trời trong mắt nhau, Bé quay nghiêng mặt, nói thì thầm:

- Hôn má thôi. Bé sợ “đóng tem” lắm.

- Không thích?

- Thích. Mà sợ… lỡ sau nầy nhớ nhau chết mất.

“Đóng tem” là tiếng lóng của những mối tình học trò Huế một thời chỉ hôn môi. Bị đóng tem rồi là thành tem chết; thành “bồ” của nhau, lấy nhau không đặng thương hoài ngàn năm!

Rồi nắng chiều cũng xuống sau đồi Từ Hiếu.

Khi về tới chỗ để xe đạp thì trẻ con giữ trâu đã tháo tan hoang và ăn cắp những đồ phụ tùng chiếc xe đạp ngoại quốc của Thủy Tiên. Chiếc xe đạp đời Gia Long của tôi thì vẫn còn nguyên. Tôi quay quắt định chạy đi tìm quanh thì Thủy Tiên đã chận lại:

- Thôi bỏ luôn. Ngày mai, Bé cũng không còn đạp chiếc xe nầy nữa?

- Bé đi học bằng xe hơi trở lại à?

- Không. Nhưng…

Thủy Tiên không nói gì thêm mà chỉ ôm mặt khóc nấc lên. Tôi hoảng vía hỏi dồn chuyện gì xẩy ra. Sau cơn cảm xúc xảy ra nhanh như một trận mưa giông ngang qua và tạnh, Thủy Tiên chỉ nói mơ hồ:

- Bé không biết. Ba me chỉ nói cho Bé đi chơi với bạn một ngày cuối cùng. Bé sợ…

Ngập ngừng… ấp úng. Khi một người con gái mới lớn, lòng nhẹ như phù dung, ngập ngừng không nói ra lời khó nói là muốn tỏ nỗi lòng thầm kín; tỏ tình hay từ biệt. Tôi cũng sợ. Tỏ tình cũng là một cách chia tay với hồn nhiên và chia tay là tạ từ mơ ước.

Khi tôi đèo Thủy Tiên về đến cổng nhà, trong ánh sáng xanh buồn của một buổi chiều rất Huế, Thủy Tiên nhìn tôi đăm đăm trước khi cúi xuống, dúi vào tay tôi cái hộp nhỏ và vội vàng đi nhanh vào bên trong khung cửa sắt như trốn chạy. Ngẩn ngơ, tôi muốn nói với điều gì, nhưng tiếng khóa sắt và hai cánh cổng sắt đã khép như hai bàn tay chắp lại đóng kín một lời, lạnh lùng và quyết đoán.

Nằm nhắm mắt hình dung lại những chớp mắt của ngày qua, tôi suy nghĩ lao lung trong bóng tối. Cái hộp nhỏ của Thủy Tiên vẫn nằm nguyên trong ngực áo. Tôi chưa đủ chuẩn bị một sự vỡ òa để mở ra khi cố hình dung lại nét nhìn đăm đăm, nửa như đau đớn, nửa như nhận chịu của Thủy Tiên lúc chia tay. Nỗi ưu tư của tuổi trẻ rồi cũng nhẹ nhàng trôi vào giấc ngủ. Tiếng rao bán bánh mì rất trẻ thơ từ đâu đó vang lên trong sớm mai còn ngái ngủ. Tôi bật dậy, mở ngay chiếc hộp nhỏ của Thủy Tiên. Sau ba bốn lớp giấy gói và mùi nước hoa rất lạ: hai chiếc khăn tay trắng thêu hoa pensé tím nhạt và thêu chữ nhỏ màu tím đậm. Chiếc thứ nhất với hàng chữ: “Nếu ngày về thấy khung trời đổ nát…” và chiếc thứ hai: “Thì tìm em trong tận đáy hồn anh.” Hai câu thơ của thầy Nhất Hạnh khi nói về Phương Bối. Tìm không phải là kiếm gì đã mất mà là một sự khai mở cõi hồn tự tại. Lời nhắn gởi xa vắng thêu chữ mầu tím Huế làm tôi lạnh mình.

Tôi mở tung khung cửa sổ nhìn qua nhà Thủy Tiên ở phía bên kia đường. Cửa sắt cổng nhà mở toang. Nhìn sâu vào bên trong, cửa chính mở hờ nhưng đồ đạc rơi vãi từ trong nhà ra tới sân. Tôi mở cửa chạy vội qua nhà Thủy Tiên nhưng kinh ngạc đến chưng hửng vì chẳng có ai. Rõ ràng có một cuộc di tản lớn trong đêm.

Những ngày sau, tin lan ra rõ hơn: gia đình Thủy Tiên đã bí mật trốn đi để tránh nguy cơ với chính quyền mới…

**
Sáu tư tuổi ta, sáu ba tuổi Tây, tôi lại về thăm Huế. Những người bạn cùng thời đều đã nghỉ hưu ở tuổi 55, 60. Sáng sớm, mới bét mắt, những “ông trai già” lục tuần ít ngủ, quen thức khuya dậy sớm đã lên điện thoại gọi nhau ơi ới ra góc cầu Trường Tiền uống cà phê Sơn. Những bùn lầy, sỏi đá, gạn đục khơi trong của cả một thế hệ chiến tranh Việt Nam bắt đầu lắng xuống với tuổi già. Những tâm hồn bão nổi Quốc Học, Đồng Khánh một thời đang lặng gió theo từng đầu tóc bạc phơ, muối nhiều hơn tiêu, đen nhánh mới nhuộm hay phai màu phôi pha… thường gặp nhau trong cùng một góc khuất của quá khứ. Tuổi già nhắc chuyện ngày xưa như muốn sống lại tuổi thơ; đem hồn nhiên đối mặt với vô thường.

Cái ăn, cái uống của Huế thường nổi danh từ những… vô danh. Bên cạnh bún bò Mụ Rớt, bánh nậm Mụ Đỏ, nem tré Mụ Tôn, thuốc cẩm lệ Mụ Cửu Ới, cơm hến Mụ Bòng… vang bóng một thời vẫn có nhiều gánh cháo chè, bánh trái bán rong “ngon nhức răng” mà không màng tên tuổi. Ngày tôi về lại Huế, những “Mụ” kế thừa thuộc thế hệ đàn em vẫn còn xa lạ với tôi. Buổi chiều, cô cháu nhỏ bắt tôi chỉ ăn chút ít cho ấm bụng để tối qua bia Quốc Học ăn bánh lá Mụ Bé. Theo lời đồn thì đây là nguồn bánh “tuyệt chiêu” của Huế.

Sau chạng vạng tối, khoảng trống giữa bia Quốc Học và bờ sông Hương đã có người lảng vảng chờ bánh tới. Tôi đến nơi, khi hàng bánh Mụ Bé cũng vừa tới. Đi đầu là một bé trai chừng 12, 13 tuổi, một tay xách cây đèn gương che gió và tay kia xách một giỏ mây khá nặng. Đi sau là một bà già mảnh khảnh mặc áo dài nâu, đội nón lá mặc dầu trời tối và khô ráo. Bà ta nách một chồng thúng mủng chồng lên nhau, đậy kín mít. Đến nơi, chẳng nhìn ai, bà ta ngoắc thằng bé lại và hỏi ngay người khách ngồi chò hỏ trước mặt:

- Ăn chi?

Người khách ra toa đặt hàng ngay không vấp váp:

- Dĩa bánh nậm, dĩa bánh bèo thịt heo nạc, ít mỡ chài, nước mắm cay, ớt chỉ thiên.

Đến lượt tôi, cũng được bà già hỏi hai chữ y như những người khách trước:

- Ăn chi?

Tôi cầu cứu đứa cháu đặt hàng giúp. Như đã quá quen thuộc, đứa cháu đặt hàng:

- Mần cho một trẹt đủ thứ.

Bà già im lặng lôi cái trẹt tre làm mâm và bắt đầu ra bánh. Nửa chừng, ngọn gió từ sông Hương thổi lên hất ngược cái nón lá của bà già. Thằng bé sợ tắt đèn vặn to tim lửa. Bà già đưa tay bối lại đầu tóc bạc phơ vừa bị gió xổ tung. Một khuôn mặt nhăn nheo với mầu da trắng vàng bủng beo hiện ra. Bà già có vẻ bực mình vì gió, nói gì lầu bầu không rõ, nhưng cũng để lộ ra cái miệng móm mém hình như không còn chiếc răng nào để lộ ra. Tôi nhìn kỹ vào khuôn mặt già cỗi của người bán bánh và giật nẩy mình khi nhận ra cái nút ruồi son Ấn Độ nằm chếch giữa hai chân mày trên chiêc mũi dọc dừa xám ngắt. “Nút ruồi son Ấn Độ” trên chiếc mũi dọc dừa là nét độc đáo nhất trên khuôn mặt Thủy Tiên mà tôi không thể nào nhầm lẫn được. Tiến gần tới phía mặt bà già bán bánh, không cầm giữ được cảm xúc thêm một khắc nào nữa, tôi gọi ngay tên vừa đủ nghe mà không sợ lầm:

- Thủy Tiên!

Bà già ngước đôi mắt mờ đục lên nhìn người đối diện mà dường như chẳng thấy ai, hỏi:

- Ai mà biết tên tục của tui.

Không phải là một câu hỏi, mà cũng chẳng phải là một lời giải thích nên bà bán bánh cũng chẳng buồn quan tâm đến phản ứng của người vừa gọi đúng tên của bà hay người đó là ai nữa. Lòng tôi se lại khi thấy người bán bánh thản nhiên cúi xuống tiếp tục sắp bánh ra dĩa. Một Thủy Tiên nào đó đã phân thân từ ký ức, không còn liên hệ tới bà bán bánh. Không tiện nói thêm điều gì, tôi gọi riêng đứa cháu để nhờ nó mua hết số bánh còn lại. Khi nghe cháu đòi mua hết bánh, “Mụ Bé” trả lời khô khan:

- Rứa thì khoẻ!

Sau khi giao hết bánh cho người cháu của tôi ra xích lô về trước, khách không còn ai, Mụ Bé gọi thằng cháu ra về. Trước mặt tôi là một bà già hom hem tuổi sáu tư. Cố gắng lắm, với sự giúp đỡ của thằng cháu, tôi chỉ biết thêm một chút thông tin về hoàn cảnh của Thủy Tiên. Chồng mất tích trong chiến tranh. Có thằng con trai duy nhất thì bị què, vợ bỏ. Thằng cháu nội phải bỏ học giúp bà nội bán bánh kiếm tiền sống lây lất qua ngày. Nhắc lại chuyện ngày xưa của Thủy Tiên, Mụ Bé không màng nhớ tới. Nàng Đồng Khánh Thủy Tiên một thời hoa mộng đã chết và tái sinh thành Mụ Bé. Không biết đặt ở đâu cho đúng chỗ trong 6 nẻo Luân Hồi.

Những ngày còn lại ở Huế, về làng, thăm mộ mẹ, tôi nhớ những chiếc áo Tết từ chiếc hộp champagne lì xì của Thủy Tiên đã 45 năm về trước. Con người và thân phận có một sự ly thân. Con người sinh ra để làm một thuở Tiên Đồng Khánh; thân phận một thời bắt làm Mụ Bé bán bánh lá.

Ân tình, dù một thoáng đi qua, cũng chẳng bao giờ lập lại hay đền đáp được. Nhưng thà giúp một viên thuốc giảm đau vẫn còn hơn ngồi nhìn nỗi khổ đau chờn vờn trước mắt. Tôi giúi vào mủng bánh trống của Mụ Bé món quà nặng ân nghĩa mà vẫn sợ bị thiếu như Thủy Tiên giúi hộp champagne vào tay o Cúc, giúp làm nên một mùa Tết hạnh phúc như năm xưa. Trần gian, dẫu cõi tạm, nhưng là cửa ngõ của Thiên đường. Sống là tạm nắm lấy khổ với viên thuốc giảm đau rồi buông bỏ và ra đi. Sá gì còn, mất. Một thuở là Tiên Đồng Khánh.



Cancun, Mexico ngày đầu năm 2010

Trần Kiêm Đoàn

Hồ trường- Nguyễn Bá Trác

HỒ TRƯỜNG – Nguyễn Bá Trác ( phỏng dịch)

Đại trượng phu
Không hề xé gan, bẻ cật
Phủ cương thường
Hà tất tiêu dao
Bốn bể luân lạc tha phương
Trời Nam, nghìn dặm thẳm
Non nước, một màu sương
Chí chưa thành, danh chưa đạt
Trai trẻ bao lăm, mà đầu bạc
Trăm năm thân thế, bóng tà dương
Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang
Ai người tri kỷ...
Lại đây cùng ta
Chung cạn một hồ trường!
Hồ trường, hồ trường
Ta biết rót về đâu...
Rót về Đông phương
Nước biển Đông chảy xiết
sinh cuồng loạn
Rót về Tây phương
Mưa Tây sơn từng trận
chứa chan!
Rót về Bắc phương
Ngọn Bắc phong vi vút
đá chảy cát vương!
Rót về Nam phương
Trời Nam mù mịt...
Có người quá chén
như điên, như cuồng...
Nào ai tỉnh...
Nào ai say...
Chí ta, ta biết
Lòng ta, ta hay
Nam nhi sự nghiệp ư...
Hồ thỉ
Hà tất
cùng sầu với cỏ cây.

Thứ Năm, 25 tháng 3, 2010

Từ ngõ Huế xưa-Trần Kiêm Đoàn

TỪ NGÕ HUẾ XƯA – Trần Kiêm Đoàn

Không ngờ rồi sẽ có ngày một chú bé quê lại được vào trường Quốc Tử Giám.
Tôi được vào học lớp đệ thất trường Hàm Nghi Huế năm 1958. Thỉnh thoảng vào những buổi sáng sắp hàng chào cờ thầy hiệu trưởng Hồ Văn Lê và thầy tổng giám thị Lê Hiếu Kính vẫn nhắc nhở rằng, nơi chúng tôi đang đứng là trường Quốc Tử Giám ngày xưa. Quốc Tử Giám là trường Đại học Quốc gia đầu tiên xây dựng ở thành Thăng Long Hà Nội vào năm 1076 và trường “Đại học Quốc gia” này được xây dựng ở Huế vào năm 1821 dưới triều vua Minh Mạng. Quốc Tử Giám là trường dành riêng cho con vua cháu chúa đến học. Gần một thế kỷ rưỡi sau, khi con cháu của hàng dân dã như chúng tôi bước đến vùng đất một thuở Hoàng triều nầy, thì Quốc Tử Giám uy nghiêm ngày xưa chỉ còn là tên gọi.
Di Luân Đường, tên ngôi nhà lớn ở giữa làm đại giảng đường thời cổ, nay trở thành nơi thờ phụng đức Khổng Tử và viện nghiên cứu Hán Học. Ba dãy nhà làm cư xá cho các hoàng thân, cậu ấm xưa kia, nay được dùng làm phòng học của chúng tôi và văn phòng của nhà trường. Rồi bốn năm Quốc Tử Giám êm đềm đi qua. Những cậu bé quê cũng học được chút ít văn minh thành phố. Ít ra thì đầu óc chân tay cũng nhạt bớt chất phèn của “quê hương em nước mặn đồng chua”, lên được hàng “trình độ văn hóa đít lôm” đủ làm kẻ sĩ miệt đồng.

Sau Hàm Nghi là Quốc Học. Trường Quốc Học Huế cũng mang trên mình một lịch sử le lói không thua gì Quốc Tử Giám. Quốc Học vừa “oai” vì có cái tên rất sang; lại vừa có một lịch sử vang bóng như những dấu ấn chói mầu son của chốn Hoàng triều cương thổ. Được xây dựng từ năm 1896 dưới triều vua Thành Thái với cái tên Pháp Việt đề huề là Lycée Khải Định. Lần đầu tiên, nơi chốn đế đô thâm nghiêm, truyền thống “kỵ húy” khắt khe đến mức tên thê thiếp của nhà vua cũng không dám gọi thẳng, thế mà lại lấy tên một ông vua ra đặt tên trường không khác gì ở Paris. Đây là nơi dành riêng cho con cái của các hoàng thân, quốc thích và quan lại đến học. Trường Quốc Học đã là lò đào tạo nhân tài của hai thế hệ Tiền chiến và thế hệ Chiến tranh Việt Nam trong cả nước.

Tôi học lớp đệ tam, được đeo “một quèo” ở biển tên màu xanh may trên ngực áo sơ mi trắng. Học trò đệ tam Quốc Học là hàng lính mới tò te, nên phải biết e dè và khiêm tốn đi về ngày hai buổi trên con đường trái tim chất ngất ân tình nhất của Huế. Đó là con đường Lê Lợi dọc sông Hương, từ Đập Đá lên ga Huế. Nhưng khi đến trường Đồng Khánh và Quốc Học con đường bỗng mất tên, biến dạng, quên cả tuổi đời, đổi áo nhân gian để trôi vào ảo ảnh. Đường sẽ mang tên: Con đường áo trắng, đường phượng bay, đường mang tên em, đường áo tím, đường tình sử, đường tôn nữ… Tên mỗi con đường mang ý nghĩa riêng đối với một người, một thuở, nhưng cái chung của nó vẫn là nét đẹp không tàn phai.

Cái tự nhiên, xuềnh xoàng từ trong bản chất của gã học trò miệt đồng như tôi thường xuyên bị đánh thức. Cứ mỗi sáng thức dậy, chuẩn bị sách vở đến trường, nghĩ đến khi đạp xe qua cầu Trường Tiền, quẹo phải, ngang qua trường Đồng Khánh phải xông pha phơi mình giữa một rừng áo trắng, tóc thề, và những đôi mắt hải đăng ẩn mình sau nón lá là tôi phải “dọn mình” cho gọn gàng tươm tất. Quệt thêm một chút nước lạnh chải đầu cho gọn. Lấy bộ áo quần xếp nếp thẳng tưng dằn dưới phản ngủ suốt đêm ra mặc. Nếu không đi học trên đường phượng bay, ngang qua trường Đồng Khánh có lẽ đời tôi sẽ đơn giản hơn. Rồi đến những mùa thi, tương lai xa vời vợi, tôi ít nghĩ tới hơn là siêng năng hé cửa nhìn trộm cô bé Đồng Khánh học cùng cấp lớp bên cạnh nhà. Tôi dại dột không dám thổi đèn ngủ sớm hơn, nếu ánh đèn nhà bên chưa tắt, mặc dù tôi đã ngáp dài, ngáp ngắn, cố vật lộn với cơn buồn ngủ cứ níu tôi về với thực tại. Tôi tưởng tượng quả đất sẽ quay ngược chiều nếu ngày treo bảng tú tài mà cô bé đậu còn tôi rớt. Thế mà năm sau cô bé đậu còn tôi rớt kỳ đầu thiệt tình. Tôi chẳng dám nhìn ai và dĩ nhiên là không dám nhìn cô bé đã lên “bà tú”, rồi lặng lẽ cuốn gói rời nhà trọ về làng bế môn gạo bài thi kỳ 2.

Hỏng thi là một biến cố của đời học trò bất kỳ ở đâu. Nhưng đối với học trò Quốc Học chúng tôi thì hỏng thi tú tài là “đệ nhất buồn” vì có ngôi trường Đồng Khánh bên cạnh. Cái nhìn ghẻ lạnh hay thương hại của người đẹp đối với người thua cuộc sẽ nhức buốt như một bản án tuyệt tình không công bố đối với kẻ sa cơ.

Trường Đồng Khánh ảnh hưởng lên con dân Quốc Học như thế nào thì quả là khó mà lường được. Nhưng tôi đã nghe một thằng bạn thuộc loại đẹp trai, con nhà giàu, học… lếu long trọng phát biểu về nữ sinh trường Đồng Khánh như sau:

- Dân Đồng Khánh dễ sợ chi lạ, nói không “ngạ”!

Cách diễn tả thuần Huế như vậy là một lọai “công án” Huế; một sự đem nghìn trùng về giữa hư không. “Dễ sợ” là một khái niệm cực tả mà mọi quy ước của ngôn ngữ đều bất chấp hình tướng, không bị giới hạn bởi kích thước của sự ví von, cân đo đong đếm. Đó là một cảm nhận gần với tuyệt đối, mạnh hơn cả một chùm tiếng “rất”. Rất, rất, rất… đẹp sẽ không đẹp bằng “đẹp dễ sợ!”. “Ngạ” cũng là khái niệm của vô biên. Nói không ngạ là không thể nào nói hết ra bằng lời. Cách nói Huế là cách nói bằng cảm nhận. Nói hơi, nói bóng, nói một vầng mây bay qua thay cho lời trần tình về mơ ước tình yêu chan chứa cả bầu trời xanh; nói “sợ mạ la” thay cho một sự gật đầu hò hẹn. Ngôn ngữ giàu cảm xúc nhất của Huế là nói mà không cần hiểu hay hiểu cách nào cũng được. Chỉ cần cảm nhận “như rứa” và thấy hay. Cái hay không qua ngõ ngách của phân tích và lý luận mà đi thẳng vào cảm quan người nhận như lời nhạc mang chất thơ dễ cảm nhưng khó hiểu của Trịnh Công Sơn. Dễ cảm mà khó nhận như một lần qua bến đò Thừa Phủ chiều mưa, vắng vẻ và cảm thấy buồn. Nỗi buồn vô lý, vô duyên và vô cớ cứ lất phất bay từ đầu sông tới cuối bến. Qua đò, không cần biết có ai chờ ai, ai nhớ ai, ai con nhà ai và ai đã vắng, nhưng vẫn có nổi cảm xúc mênh mang chực chờ đâu đó. Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai!

Riêng tôi, suốt ba năm học Quốc Học, ngày lại ngày đạp xe đi học qua trường Đồng Khánh, nhưng chưa bao giờ có dịp dừng lại trước cổng trường vôi hồng pha sắc tím đó. Lý do tôi không dám lân la bén mảng đến trường Đồng Khánh vì thuở học trò, tôi cảm thấy Đồng Khánh cả người lẫn ngựa đều mang một vẻ gì vừa sang, vừa đẹp, không hợp với bản chất nông dân chất phác của mình.

Dân Đồng Khánh đẹp nhất là dáng vẻ bên ngoài. Mặt mũi nội dung ra sao chưa biết, nhưng với cái vóc dáng thanh thanh, khoác lên chiếc áo dài tha thướt, quần dài trắng tinh tươm, thanh khiết, nuột nà; với dãi tóc mây đen tuyền, mọc ra từ chiếc nón lá trắng ngà, óng mượt phủ lên lưng, chảy xuống bờ vai và uốn lượn với gió đã tạo nên những huyền thoại về “cô gái sông Hương”.

Hình như những dáng vẻ thanh nhã như vậy thường hứa hẹn một khuôn mặt không diễm kiều thì cũng rất thơ, e ấp núp dưới pháo đài là cái bóng vạn lý của chiếc nón lá và dãi quai nón có hình dáng và mầu sắc nói nhiều hơn cả vài trang tiểu sử. “Người lịch sự không ngoái cổ nhìn lui”, tôi biết vậy nên họa hoằn lắm mới dám liều lĩnh quay nhìn lui một khuôn mặt tưởng đâu đã yên thân sau vành nón. Đi xe đạp nhìn lui một nàng tuyết trắng Đồng Khánh, tôi thường ít sợ bị mắng “ba nhe” hơn là cảm giác vỡ mộng nếu lỡ bắt gặp một khuôn mặt được dựng lên trong phút đãng trí của “bà Mụ bắt lầm”!

Dân Đồng Khánh thường làm cho dân Quốc Học chúng tôi không ít chàng bỗng thành nghệ sĩ, thi nhân, lãng tử và đôi khi cũng thành anh hùng thật bụng và anh hùng... vớ vẩn, chỉ vì từ buổi có em. Người Đồng Khánh còn có khúc “mê hồn ca” vì giọng nói, tự nhiên cũng nhiều mà làm điệu cũng không phải là ít. Âm vang tuổi thanh xuân tròn và ngọt lịm của giọng nữ có sức lay động đã dành, nhưng cách dùng từ nhẹ nhàng, chọn lọc và quý phái của giới nữ sinh thành phố Huế cộng với nghệ thuật diễn cảm gợi hồn như thì thầm, cắn môi, nheo mắt, bỏ lửng, đam mê, đăm chiêu, hờn dỗi, lạnh lùng... còn làm cho dân Huế ngoại vi thành phố như tôi đủ ngẩn ngơ bạt vía; nói chi đến những chàng trai xứ Quảng mướt mồ hôi trèo đèo, lặn lội… ra thi!

Ai đã chọn ngôi nhà sát nách trường Quốc Học để dựng lên trường Đồng Khánh quả là một thiên tài đầy lãng mạn về khoa phong thủy và nghệ thuật.

Nếu đứng quay lưng về phía núi Ngự Bình, nhìn ra sông Hương trước mặt, sẽ có “Nam tả” là trường Quốc Học và “Nữ hữu” là trường Đồng Khánh. Hai ngôi trường mang thế cực dương và cực âm tạo thành một cặp đôi “âm dương bình hành” qua gần cả một thế kỷ lịch sử học trò. Chắc chắn là hình ảnh cô nữ sinh Đồng Khánh sẽ không nên thơ đến mức huyền thọai như thế nếu trên đường Lê Lợi bên bờ sông Hương không có bóng dáng của những chàng trai Quốc Học: Vắng chàng, vàng rơi nỏ tiếc!

Ngày kỷ niệm Quốc Học 100 tuổi và Đồng Khánh 79 tuổi, tôi có cảm tưởng như đây là ngày tình sử “Bách niên giai lão” của hai ngôi trường “cặp đôi” – Vẫn mãi mãi là cố nhân – dẫu cho “Cây đa bến cũ con đò khác đưa”!

Xa quê hương, cũng có nghĩa là xa Huế, xa Quốc Học Đồng Khánh, xa những mảnh đời ngọt ngào và cay đắng… mà tất cả đã thành kỷ niệm nằm sâu trong những ngăn ký ức. Có những lúc thật bất chợt, ngăn ký ức bật nắp và cơn lũ của hoài niệm cuồn cuộn cuốn phăng những dòng suy tưởng cho suối nguồn tình cảm kéo những nỗi buồn vui đi về đâu xa tắp. Như sau cơn lụt có những bờ đất trầm lỡ, dăm mảnh đất mang một hình hài mới nhưng đây đó vẫn còn lại dấu vết của ngày xưa. Nơi đây, quê người, nếu giờ nầy là 5 giờ chiều ngày thứ năm sắp tan sở ở Cali thì bên tê, Quốc Học Đồng Khánh là 7 giờ sáng ngày thứ sáu. Có tiếng trống báo giờ vào lớp. Tôi nghe, từ một nỗi nhớ rất sâu, nhưng không rộn ràng vì dư âm đã tan vào đất, lắng vào lòng, hốt mê hốt giác hơn 40 năm…



Đêm Hồ Trường Quốc Học

Trong lịch sử 100 năm của trường Quốc Học, không biết có thời kỳ nào mà bảng kết quả kỳ thi tú tài 2 lại có một tác dụng mang tính quyết định cho số phận con người mạnh mẽ đến như thế. Mảnh bằng không chỉ là dấu hiệu của học vấn mà còn là một quyết định gần như tối hậu cho một thanh niên tuổi mười tám, đôi mươi, được tạm yên thân hay phải bị nhổ bật cả gốc rể như thời kỳ của tôi vào những năm giữa thập niên 1960. Khi tấm bảng niêm yết danh sách thi Tú Tài vừa treo lên, cũng là lúc chúng tôi chuẩn bị đổi đời: Vào đại học chuyên nghiệp, đại học tự do; vào quân truờng rồi ra chiến trường hay chẳng vào đâu cả… đều có nghĩa là bước vào một cuộc đời, một cách sống hoàn toàn mới mẻ.

Tôi tình cờ được dự buổi họp mặt học sinh Quốc Học mùa Hè tại nhà Nguyễn Thành Nhân gần sân vân động Tự Do. Thật ra, đây là một cuộc họp mặt của một nhóm thân hữu học sinh lớp 12 Quốc Học với sự tiếp tay của những người đẹp Đồng Khánh, Kiểu Mẫu, Bán Công, Mai Khôi… Chủ lực là các gã tú đậu thết đãi an ủi mấy chàng tú hỏng.

Đây là cuộc họp mặt học trò làm tôi nhớ đời vì không ngờ sau đêm chia tay ấy, có đứa đi lính bên nầy, đứa trốn vào bưng biền đi bộ đội bên kia. Nhiều đứa trong “Đêm Hồ Trường” hôm đó, ngất ngưởng men rượu Thiên Tường, rượu Làng Chuồn nằm gác chân lên nhau mà ngủ, sớm mai chia tay đầy lưu luyến. Nhưng rồi qua nhiều biến cố dồn dập trên quê hương, có những đứa bạn gần gũi cùng ngồi chung bàn, chung lớp ở Quốc Học nhưng lại không chung hoàn cảnh và chí hướng Chiến tranh bão liệt lan ra khắp nơi, chỉ còn chừa lại cái lõi thành phố. Thơ xanh êm ả pha mùi lãng mạn sướt mướt thời tiền chiến, cũng như thơ lữa của Quang Dũng hừng hực khí thế kháng chiến chống xâm lăng… đã trở thành quá khứ. Vẻ mệt mỏi, trăn trở, than van pha mùi triết lý về quê hương đau khổ và thân phận làm người như Jaspers, Sartre, Remarque, Trịnh Công Sơn, Phạm Duy… trở thành khuynh hướng thời thượng. Bài thơ được ưa chuộng nhất trong các tiệc rượu thời nầy là bài Hồ Trường của Nguyễn Bá Trạc có lẽ vì bên cạnh hơi hướm lãng tử và trăn trở, Hồ Trường còn có thêm niềm bi phẫn của kẻ sĩ sinh chẳng gặp thời.

Gã nghệ nhân được ưa chuộng và nhớ đời trong đêm họp mặt hôm đó là Lê Văn Thôi, người vừa diễn, vừa ngâm bài Hồ trường sống thực và sống động đến nỗi 40 năm sau còn có người nhắc lại “Đêm Hồ Trường”.

Thôi là con nhà Huế toàn ròn nên mới có tiếng ngâm thơ Bình Trị Thiên mềm và ướt vì có tẩm sương núi, ướp gió Lào như mây trên núi Bạch Mã, nhưng cũng buồn xé ruột như điệu ca Hời Nam Ai.

Một buổi tiệc học trò mang tiếng là họp mặt nhưng thực sự là để chuẩn bị chia tay. Mỗi cuộc chia tay trên xứ Huế thường mang một vẻ gì u ẩn nao lòng vì tâm Huế bao la nhưng tay Huế nhỏ quá, không đủ bao bọc cho bầy con tứ xứ trở về. Đã ra khỏi Huế thì đừng mong ngày về mà hãy chuẩn bị tâm trạng nhớ Huế, trông vời quê mẹ. Những người trẻ có mặt trong đêm Hồ trường bịn rịn tìm nhau vì cảm nhận được điều đó.

Đêm xuống đã sâu, nhưng không ai muốn chia tay. Sợ chia tay không có ngày gặp lại. Bởi vậy tiếng ngâm thơ của Thôi trở thành chất keo gắn những nỗi bâng khuâng dính chùm trong cảm xúc.

Sau lời giới thiệu của Nhân, trong sự im lặng chờ đợi, tiếng cười vỡ vụn của Thôi bỗng vang lên. Nửa như đau xót, nửa như hào hùng trêu chọc. Con nhà hội họa hóa trang thật tài tình. Khuôn mặt thư sinh của Thôi, thêm mấy chòm râu, điểm những nét nhăn hằn lên trên trán, với cái khăn mỏ quạ và chiếc áo dài đen bạc màu mượn của bác cai trường đã biến Thôi thành hình ảnh một kẻ sĩ thời xa xưa sinh chẳng gặp thời. Một tay ôm bầu rượu, tay kia đặt trên đốc kiếm. “Hồ rượu” và “bảo kiếm” đều là các dụng cụ hóa trang vở kịch Tiếng Gọi Lam Sơn của Trần Quang Long diễn trong trại Hè học sinh Quốc Học còn sót lại. Sau tràng cười kinh động là tiếng kiếm rút ra khỏi vỏ “rít” lên qua cửa miệng của Thôi. Đường kiếm múa lấp loáng mê cuồng như đang nhịp theo một bản cuồng ca. Những bè bạn thân quen không ai ngạc nhiên với đường kiếm bay bướm của Thôi vì biết gã là một sư huynh của phái Nga Mi Bãi Dâu; nhưng đối với khách lạ thì căng mắt ngồi nhìn một cách khoái chí.

Bỗng tráng sĩ nhà họ Lê im bặt, tra kiếm vào vỏ, rồi cúi gầm nhìn đăm đăm vào hồ rượu. Tiếng ngâm như từ vực sâu cuồng nộ, khí khái cất lên:

Trượng phu sao không xé gan bẻ cật,
Phù cương thường hà tất tiêu dao!

Tiếng ngâm thơ Bình Trị Thiên đanh như vết chém. Những âm sắc vút lên cao nhọn hoắc, rơi dần lảo đảo với một chút ỡm ờ và giọt xuống:

Bốn bể lưu lạc tha hương,
Trời Nam nghìn dặm thẳm,
Non nước một màu sương.

Kẻ sĩ lại ngước lên nhìn trời như đang cầu xin một ân điển, nhưng rồi hai tay buông xuống, vuốt nhẹ mái tóc đã bạc màu. Trời thì quá xa mà kẻ sĩ đã về chiều nên cũng đành đành thú nhận:

Chí chưa thành,
Danh chưa đạt,
Trai trẻ bao lăm mà đầu đã bạc,
Trăm năm thân thế bóng tà dương!

Im lặng!... Một thoáng yên ắng lắng sâu trong ánh đèn dầu lay lắt. Tráng sĩ trỗi dậy, gươm tuốt trần, rượu đầy hồ, tiếng ngâm ngân lên rộn ràng, xôn xao giữa tâm hồn bão nổi:

Vỗ gươm mà hát,
Nghiêng bầu mà hỏị
Thiên địa man man,
Ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường!

Không rõ Thôi đang diễn tuồng hay đang ngất ngưởng trong những khoảnh khắc phù du mượn tạm một vai trò để sống. Nhưng lạ lùng là đôi mắt đam mê đầy hào khí của Thôi lấp lánh tình bầu bạn, chiếu thẳng tới nhãn quan từng người có mặt. Tiếng ngâm thơ dạt dào và hưng phấn, nhưng cũng dằng dặc nỗi buồn của kẻ đi đường xa chưa gặp bạn đồng hành:

Hồ trường!
Hồ trường ta biết rót về đâu?
Vẫn im lặng. Thôi giương cao bầu rượu và nối đuôi theo tiếng ngâm thơ mời gọi:
...rót về đâu? Ta biết rót về đâu?
Có tiếng đáp thật bất ngờ:

- Rót về đây đi tráng sĩ ơi!

Đó là tiếng của Chiêu Hà “Vélo Solex”, cô bé Đồng Khánh “mode” nhất ở đường Phan Bội Châu, nổi tiếng như cồn vì mái tóc ngắn “đờ mi gạc xông” rất có duyên với dáng Tây Phương, học võ Karate với giáo sư Ngô Đồng và cỡi xe Vélo chạy phon phon trên đường phố Huế.

Mọi người quay lại vừa khi Thôi nghiêng hồ rượu rót vào ly nước chanh đã cạn của Chiêu Hà. Rồi Thôi nghiêng hồ rượu và khoát tay mời anh em cùng uống. Người đẹp Đồng Khánh đã đưa ly lên môi, thì những người hùng Quốc Học không còn lý do e dè hay từ chối. Tất cả cùng uống. Tiếng ngâm thơ lại nổi lên nửa như thách đố, nửa như mời gọi trong nỗi trần tình đầy cảm khái:

Rót về Đông Phương, (ư) ?
Nước bể Đông chảy xiết sinh cuồng lãng!
Thôi lại đưa cao hồ rượu quá đầu, hỏi tiếp:
- Hồ trường... Hồ trường ta biết rót về đâu… Rót về đâu?

Có nhiều tiếng đáp một lần, cả tiếng trong veo của người đẹp đâu đó đầy phấn chấn:

- Rót về đây!

Thôi lắc đầu theo tiếng thơ chảy xiết:

- Rót về Tây phương, (ư)?

Mưa Tây sơn từng trận chứa chan!

Và tiếp:

-...biết rót về đâu?

Lại thêm năm ba cái ly đưa lên. Thôi rót đầy rượu cho từng người rồi chỉ tay về Bắc:

- Rót về Bắc phương, (ư)?
Ngọn Bắc phong vi vút cát chạy, đá giương!

Âm hưởng giọng ngâm thơ của Thôi rung cảm tới mức mọi người đều đứng dậy, nâng ly uống cạn trong tiếng thơ hướng về Nam:

- Rót về Nam phương, (ư)?

Trời Nam mù mịt!

Hồ rượu trong tay Thôi lại được châm đầy và rót cạn tới bao nhiêu lần nhưng niềm vui pha men đắng của sự sum họp tạm bợ trong cuộc chiến vẫn tràn trề, mỗi lúc một cuồn cuộn dâng lên trong cơn mê hồ trường. Dáng đi của tráng sĩ Thôi đã ra chiều chếch choáng. Thôi lấy hết tuyệt kỹ đểâ ngâm tràn những giọt thơ còn lại:

Có người quá chén như điên như cuồng!
Nào ai tỉnh, nào ai say,
Chí ta ta biết, lòng ta ta haỵ
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thủy,
Hà tất cùng sầu đối cỏ câỵ

Tiếng ngâm thơ đã dứt một thoáng qua rồi mà không khí vẫn lặng im ngây ngây. Không hiểâu thơ đang say lòng người hay người đang say men rượu bốc thành thợ. Cho đến khi hồ rượu cạn tuột khỏi tay người cuồng sĩ, rơi xuống vỡ tan mới chợt nghe tiếng vỗ tay kéo dài như luyến tiếc...

Thiên địa man man, ai người tri kỷ... nên chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau ở quê nhà. Những thằng bạn “Hồ trường” một thuở gặp nhau ở Cali. Nguyễn Trát, Hoàng Kính, Nguyễn Lập, Phạm Tuế, những thằng bạn chân quê của tôi qua Mỹ theo diện H.O. Tôi và Mảng Bảo Thạnh chèo ghe đi chui qua biển. Đặng Văn Tuấn và Lê thị Hoa du lịch Mỹ bằng máy bay. Bạn cũ gặp lại ở quê người, điểm lại những khuôn mặt trong ngày hội ngộ Hồ Trường 40 năm trước thì hơn một nửa đã qua đời vì tử trận, chiến tranh, mất tích, bệnh tật, tai nạn bất ngờ…

Rót về đâu? Sự bâng quơ lạc lối một thời vẫn còn đó như một vấn nạn chung thân của kiếp người. Hơn một nửa bạn bè đã về đất, nhưng có mấy người biết “rót về đâu” để hồ rượu đời khỏi tràn be giọt xuống sông Hương, chảy về Nam Hải. Hình như vẫn còn một nơi an toàn nhất để rót cho đầy, uống cho cạn hết Hồ trường mà vẫn không say; hay say mà không cần uống: Đó chính là lòng mình. Có ai đã bưng hồ rượu để rót về lại lòng mình để tìm lại chính mình và kết mình làm tri kỷ. Con rồng, con phụng cao sang tận đỉnh trời, nhưng phải triều nguyệt hay tranh châu để mượn ánh sáng mặt trời, mặt trăng soi rọi cho mình. Đời sống Việt Nam chỉ có một con chịu đốt chính mình để làm ra ánh sáng. Đó là con cúi bằng rơm với thân tâm nhẹ nhàng, rỗng lặng và vô ngã.

Thứ Hai, 15 tháng 3, 2010

TRĂNG NGHẸN - thơ HOÀI TƯỜNG PHONG

TRĂNG NGHẸN - thơ HOÀI TƯỜNG PHONG
22.02.2010 08:11
(TÁC PHẨM ĐOẠT GIẢI 1 CUỘC THI THƠ ĐBSCL NĂM 2009)

Cô bạn xưa nách con ngang nhà mua chịu rượu,
Đôi mắt ướt một thời bẽn lẽn ngó bàn chân
(Trích)

Mẹ sinh tôi vào một đêm rằm mưa gió ngày xưa,
Lúc chào đời đã lỡ hẹn cùng vầng trăng viên mãn.
Vùng tản cư hồi nầy ruộng hoang nhà trống,
Rước được bà mụ vườn, ngoại cực trần thân.

Tôi lớn trong quê mùa như cây tạp vườn hoang,
Bảy tuổi biết leo lưng trâu, không từng ngồi xe đạp.
Không biết lời bải buôi để mua lòng người khác,
Nên thua thiệt cả đời vì không thể dối lừa ai.

Ngơ ngác buổi ra thành, trước cuộc sống đua chen,
Mười năm sau chưa gội rửa cho mình thành dân chợ.
Lớp phèn hết bám chân, nhưng chất chân quê vẫn còn đó,
Tôi tranh thủ những tháng hè, thích về lại thăm quê.

Bè bạn theo đuôi trâu một thời, mơ ước nhìn tôi,
Tưởng tôi thoát kiếp ngài, nhởn nhơ hóa bướm.
Tôi nhìn vẻ hồn nhiên của đám bạn xưa thèm quá,
Cộng một chút phù hoa đâu thêm lớn tâm hồn.

Mỗi lần về quê bè bạn cũ lại vắng hơn,
Gái mười bảy đã lấy chồng, trai hai mươi đòi vợ.
Cô bạn xưa nách con ngang nhà mua chịu rượu,
Đôi mắt ướt một thời bẽn lẽn ngó bàn chân.

Xóm bên sông nhiều cô gái rời quê,
Về thăm nhà xênh xang lụa là hàng hiệu.
Vài căn nhà xây, đổi đời nhờ những đồng tiền báo hiếu,
Khởi sắc một vùng quê sao nghe có chút bùi ngùi.

Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi:
Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất,
Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,
Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa.

Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn,
Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ.
Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ,
Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê.

H.T.P (Cần Thơ)

Thứ Bảy, 13 tháng 3, 2010

Lời mẹ dặn- Phùng Quán

Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.

Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ
Ngày ấy tôi mới lên năm
Có lần tôi nói dối mẹ
Hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc
- Con ơi, trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.

- Mẹ ơi, chân thật là gì?
Mẹ tôi hôn lên đôi mắt
- Con ơi, một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.

Từ đấy người lớn hỏi tôi
- Bé ơi, bé yêu ai nhất?
Nhớ lời mẹ tôi trả lời:
- Bé yêu những người chân thật.
Người lớn nhìn tôi không tin
Cho tôi là con vẹt nhỏ.
Nhưng không! Những lời dặn đó
In vào trí óc của tôi
Như trang giấy trắng tuyệt vời
In lên vết son đỏ chói.

Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi
Đứa bé mồ côi thành nhà văn
Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.

Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.

Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét
Dù ai cầm dao dọa giết
Cũng không nói ghét thành yêu.

Tôi muốn làm nhà văn chân thật
Chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.

Thứ Sáu, 5 tháng 3, 2010

Truyện ngắn 1.200 chữ của Trần Văn Thưởng

Truyện ngắn 1.200 chữ của Trần Văn Thưởng


Vợ bạn

Hai người, một đàn ông và một đàn bà, mỗi người một chiếc xe máy chạy tà tà ra hướng nghĩa địa ở vùng ven đô. Người đàn bà đi trước dẫn đường, mặt đón gió cho tóc phất phơ bay. Người đàn ông ngoan ngoãn theo sau.

Đó là một buổi chiều rực rỡ. Nắng nhuộm vàng con đường đất, dã quỳ đua nở màu hoàng hoa dậy khắp trang viên. Tiếng lục lạc nghé ọ khua động miền thảo nguyên thương nhớ.

Rồi cuối cùng họ cũng dừng lại. Ngay trước một mộ phần. Người phụ nữ lặng lẽ bày biện hoa quả, bánh trái phía trước một phiến đá tạc khắc đôi dòng chữ chân phương: “Nơi yên nghỉ vĩnh hằng của … Sinh ngày … Tạ thế … Hưởng dương 32 tuổi/ Vợ con đồng lập mộ”. Trong lúc người đàn bà thành kính thắp hương khấn vái, người đàn ông bật lửa mồi một điếu thuốc, cắm vào bát hương nghi ngút khói. Bầu trời lúc đó là một cõi xanh trong thiên khải không gợn chút mây.

- Điền có nói với ảnh điều gì thì nói đi! – Người góa phụ chợt phá tan bầu không khí tĩnh lặng bằng một giọng nói khẽ khàng.
- Ừa, Giang để tui – Người đàn ông đáp lại.

Điền đứng chắp tay hướng mắt về phía bức di ảnh của người quá cố trên bia đá, miệng lầm rầm những điều gì đó mà chỉ có gió mới có thể nghe được. Còn Giang lom khom người nhổ sạch những bụi cây dại mọc quanh ngôi mộ. Trên bầu trời thoáng hiện cụm mây trắng bồng bềnh trôi nhanh.

Họ đứng bên nhau, trước con kênh đào dẫn thủy về một khu nông trang nào đó tận cuối con đường.

- Điền biết không, con kênh đào này là âm trạch của mộ chồng mình đó! Nó thỏa mãn cơn khát của chồng mình, giúp ảnh dưới đó an tâm mà nghỉ ngơi.
- Vậy là sao?
- Chả là trước khi nhắm mắt, lời cuối cùng ảnh bật ra chỉ vẻn vẹn mỗi từ: “Nước”. Ảnh bị tai nạn giao thông ngay sau cuộc nhậu với bạn bè. Mỗi lần nhậu về, thể nào ảnh cũng nốc một ly nước thật đầy, rồi hôn vợ con. Chỉ mỗi điều cỏn con như thế mà ảnh cũng chưa kịp làm trước khi mất.

Điền nghe rõ trong âm sắc tưởng như thường nhiên ấy là cả một niềm chơi vơi của người góa phụ trẻ. Ngày xưa, ngày xưa, ngày xưa … đã trôi qua mất rồi. Không những với Giang, mà cả Điền nữa, cũng đánh vụt mất rồi. Điền thẫn người nhìn lên một tảng mây, lúc này chợt nhuốm màu đen thẫm.


* * *

Điền lấy mấy tờ bạc lẻ ra cho mấy đứa nhỏ chăn dê, nhờ chúng trông xe dùm, rồi hai người tản bộ dọc theo con kênh đào. Đi ngược hướng nước chảy. Vẫn là Giang đi đằng trước, mái tóc bồng bềnh trong gió chiều. Điền lẽo đẽo bước theo sau, cảm nghe một làn hương thơm thoáng nhẹ mơn man thịt da. Hồi cấp ba, cũng vì làn hương này mà Điền phải nhiều đêm thao thức. Nhưng Điền đã không dám bước tới, chỉ bởi bản tính nhút nhát, nhiều người còn giễu là hèn. Có đứa nói vui Giang Điền là một thác nước đẹp; nước ầm ào vậy mà chẳng thể làm mòn đá. Điền cứ trơ ra vậy, rồi đến ngày Giang đi lấy chồng. Vậy là hết những ngày đạp xe đến nhà Giang, câu chuyện câu trò để được nhìn thấy Giang cười. Nụ cười vương buồn. Có lẽ nụ cười Giang đã nhuốm nét buồn tự lúc sinh ra, ngoại trừ những lần hiếm hoi Giang bật cười hết cỡ. Vậy là hết những lần bạo phổi leo tường nhảy vào nhà hát, đến tủ thuốc lá của Giang lấy cớ mua vài điếu cho Giang vui vào những đêm gánh hát về diễn vùng ngoại ô.

Đã nhiều năm trôi qua, Điền không nghĩ đến một ngày như hôm nay. Một ngày ai đó lìa trần. Một ngày, đôi chân bỗng chùn lại. Một ngày người góa phụ hai con sớm tối đi về trên lộ trình quen thuộc. Một ngày ước mơ chỉ còn là hương khói. Một ngày áng mây đen phủ kín bầu trời.

Họ dừng lại. Khoảng cách giữa họ chỉ bằng cái nắm tay. Người đàn bà thoáng nghĩ đến bữa cơm chiều. Còn người đàn ông thì nhớ bầu không khí đàn đúm. Nhưng suy nghĩ riêng lẻ của họ không ngắt được dòng hoài niệm về một quãng hoa niên, mà giờ đây nó dường như đang rơi xuống dòng nước kênh đào, trôi về một nơi nào đó.

- Tóc Điền đã muối tiêu rồi kìa! – Giang nghịch ngợm trỏ tay lên đầu bạn.
- Vậy là nhất rồi còn gì! – Điền đáp.
- Nghĩa là sao?
- Giang không nghe mấy cô miền quê mình thường nói: “Nhất muối tiêu, nhì Việt kiều” à?
- Ông vẫn nghịch ngầm như xưa!

“Nghịch mà nhát”, Điền thầm nói thêm vào câu của Giang. Người đàn ông bất chợt buông một câu sắc như dao:

- Giang định ở một mình hoài vậy sao?

Tim Giang bỗng thắt lại. Giang biết thế nào cũng phải nghe câu này một lần nữa. Nó làm Giang cựa quậy, nhưng vừa mới động đậy sợi dây trói vô hình đã thít chặt người Giang lại, làm Giang nghẹt thở.

- Điền ác lắm.

Giang nói với Điền nhưng mà như đang nói với chính mình.

- Giang vẫn có thể làm lại mà. Chưa muộn đâu, Giang ơi!
- Không. Điền ác lắm – Giang lắc đầu, hai tay buông thõng, gương mặt thẫn thờ ngây dại.

Đã sáu năm qua, Giang cố không nghĩ đến điều này. Nhà chồng Giang đã rất tốt với Giang. Cuộc sống của Giang lúc này không thiếu thứ gì cả. Gia sản của nhà chồng, hai đứa con và phía trước là cả tương lai của chúng. Giang đã tìm thấy được nguồn vui trong cuộc sống không có đàn ông. Giang đã nghĩ, chỉ một giây phút tơ tình, người chồng dưới kia sẽ bị “khát”. Cơn khát của chồng luôn là nỗi ám ảnh trong lòng Giang. Đó là lý do khiến Giang từ chối bất kỳ một lời ngỏ nào.

Để rồi hôm nay, điều đó lại xảy đến, từ một người bạn.

* * *

Lúc quay trở lại ngôi mộ, họ sánh bước dọc con kênh đào, theo dòng nước chảy xuôi. Một áng mây cuối ngày trôi trên bầu trời mặc cho họ có ở đó hay không. Bên người phụ nữ vừa gần lại vừa xa, Điền muốn đưa tay nắm lấy bàn tay đơn lẻ ấy, nhưng nghĩ sao, rồi lại thôi.

Chợt có tiếng điện thoại vang lên. Điền nghe máy. “Ờ, ờ, về liền, về liền”. Giang hỏi: “Ai vậy?”. Điền đáp: “Vợ mình gọi về ăn cơm!”. Lúc hai người yên vị trên xe máy, Điền nhìn xoáy vào mắt Giang: “Bà nên suy nghĩ lời nói vừa rồi của tui nghen!”. Giang đáp: “Ừa”. Kèm theo nụ cười buồn muôn thuở. Đó là hình ảnh cuối cùng Điền còn lưu dấu về người vợ bạn mình trước khi gia đình Điền bay đi xa