Chủ Nhật, 23 tháng 5, 2010

Bút ký- Ký ức sông quê...Bồ giang


Bút ký
KÝ ỨC SÔNG QUÊ… BỒ GIANG

Lê Quang Kết
Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang -dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người. Vượt qua bạt ngàn núi rừng bí ẩn và hoang sơ của Trường Sơn hùng vĩ, dòng Hương bỗng phân vân khi đến địa danh A Sầu (A Lưới) và một nhánh rẻ xuôi theo hướng Đông Nam đã khai sinh con sông Bồ khiêm tốn dịu dàng làm đẹp thêm những làng quê Thừa Thiên yêu dấu.
Lũ chúng tôi lớn lên bên dòng sông ấy- một chặng dài tuổi thơ đầy ắp bi thương bởi chiến tranh và bao nhọc nhằn lo toan khác. Nhiều thứ đã vội quên trong ký ức chỉ riêng con sông Bồ thì cứ miệt mài chảy trôi theo năm tháng với bao kỷ niệm êm đềm, đằm thắm. Sông Bồ quê tôi như nỗi lặng thầm của bà mẹ dịu hiền che chở và ôm ấp những làng quê nghèo khó trải dài từ A Lưới, Hương Trà, Phong Điền, Quảng Điền rồi hội ngộ với dòng Hương ở Ngã ba Sình với bao giai thoại đầy thi vị.
Chuyến vượt sông Bồ năm xưa vẫn in đậm trong tôi- ký ức đẹp về một thời trai trẻ. Ngày đó chúng tôi tình nguyện giảng dạy miền núi, cùi cái chữ lên cho bà con dân tộc thiểu số- như người ta thường bảo- thuộc huyện A Lưới miền Tây Thừa Thiên - Huế. Bạn tôi, HĐK đã ví von: “ Chúng tôi có những ngày đi bộ/ Chúng tôi có những ngày gian khổ/ Trong cuộc sống có người chưa biết chuyện xa hơn con đường phố…”. Ấy mà bên cạnh các anh chàng thư sinh trói gà không chặt còn có nhiều thiếu nữ xuân thì vừa tốt nghiệp sư phạm đã nhẹ nhàng qua sông -họ vốn là nữ sinh Huế một thuở với bao mơ mộng dệt thành thơ. Kiến thức của ngày tháng hướng đạo sinh đã giúp chúng tôi giăng dây kết bè đưa cả đoàn vượt sông trước cơn thịnh nộ của bão lũ. Tôi nhớ như mới hôm qua -những Bồng, Trà, Tiêm, Trâm, Tỵ, Thanh, Thương, Loan, Phụng, Khuyến, Tuyết…Các cô thời ấy đang thanh xuân tràn trề nhựa sống vậy mà giờ họ đã thuộc lớp“U 60”, tuổi làm mạ chồng và làm mệ của các cháu nhỏ. Các chị giờ đang nơi nào? Có nhớ về những ngày A Lưới? Những địa danh được ai đó Việt hóa: Hồng Quãng, Hồng Thái, Hồng Thượng, Hồng Bắc, Hồng Kim, Hồng Nam, Hồng Vân, Hồng Thủy, Hồng Trung, Hồng Hạ, Hồng Tiến, Bắc Sơn, Hương Lâm, Đông Sơn và Hương Nguyên xa xôi của chàng Lê Tất Tưởng. Hay những tên vốn xa lạ đã thành thân quen với lũ chúng ta như: A Ngo, Nhâm, A Roàng, A Đớt rồi những ngôi trường mới được đặt tên: Hương Phong, Sơn Thủy, Phú Vinh…Khó ai quên được những ngày và một thời như thế. Riêng tôi, người rời A Lưới cuối cùng trong đợt miền núi đầu tiên ấy đã bỏ sông Bồ mà đi biền biệt. Xa quê xa sông xa bạn bè ngày tháng cũ, tôi như nợ nần - món nợ sông quê chồng chất dài theo tuổi tác cứ lần lữa hẹn hò mà có làm được gì đâu?
Sông Bồ chảy qua Thanh Lương, Bác Vọng Đông và Phước Yên rẽ thêm nhánh nhỏ - nơi đây có ngã ba sông và con đò ba bến. Tuổi nhỏ tôi nghe chuyện kể “Miếu Bà Tơ” mỗi khi lên đò. Cụ già râu tóc bạc trắng ung dung bên mái chèo giọng từ cõi xa xăm: “Đại trượng phu/ Không hề xé gan, bẻ cật/ Phủ cương thường/ Hà tất tiêu dao/ Bốn bể luân lạc tha phương/ Trời nam, nghìn dặm thẳm/ Non nước, một màu sương/ Chí chưa thành, danh chưa đạt/ Trai trẻ bao lăm, mà đầu bạc/ Trăm năm thân thế, bóng tà dương/ Vỗ gươm mà hát, nghiêng bầu mà hỏi/ Trời đất mang mang/ Ai người tri kỷ…/ Lại đây cùng ta/ Chung cạn một hồ trường…”. Ngày đó tôi có biết chi mô- Hồ trường (*), chỉ nghe rờn rợn đến tim óc. Sau này mới hiểu được đôi điều, người làng bảo: Cụ già chèo đò ba bến là người thừa tự cuối cùng của dòng họ Bà Tơ là dâu trưởng. Năm xưa, hội đua ghe làng Bác Vọng chiếm luôn cả hai giải Tiền và Phá, ghe làng chuẩn bị về đích bỗng đứt quai chèo- Bà Tơ đã nhanh tay rút dải lưng quần buộc lại, ghe làng giật giải. Có người còn tiếu lâm hài hước -thánh hóa dân gian chuyện thực hư: không phải dây lưng quần đâu mà cái dây lạ lùng ở tận bên trong kia - hình như người ta gọi “ âm mao” thì phải!? Cả làng reo vui ăn mừng chiến thắng, tôn vinh lập miễu thờ Bà Tơ nay ngót hơn 500 năm lẻ. Đến bây giờ lớn khôn tôi vẫn chưa hiểu nổi- một ông già quê ngoài thất thập có thể ngâm ngợi như bậc hiền triết phương Đông “Nam Phương ca khúc-Hồ Trường”- một thiên cổ thi chỉ dành cho học giả uyên thâm văn học?
Có lần tôi trở về thơ thẩn bên sông. Chuyến đò xuôi dòng từ Phú Lễ, Hạ Lang bên kia là Phú Ốc, Văn Xá. Đò buông mái chèo chầm chậm nơi ba bến xưa, tôi thẩn thờ ngắm sông. Chiều sắp tàn. Con đò như hành thiền trên sông. Còn tôi mất hồn nhìn sự tĩnh tại lạ kỳ của dòng nước. Dòng nước trôi hay đang dừng lại, con đò đang di chuyển hay đứng yên, cả tôi cũng thế- đi hay ở, động hay tĩnh? Mặt sông tĩnh lặng nhưng dòng thủy lưu vẫn nhẹ trôi. Tôi bỗng nhớ câu Kinh nhà Phật đâu đó: Những có và không, những còn và mất, những đến và đi, hiện hình và tiêu tán, phải chăng cũng chỉ là chuyện của cõi người ta và của giới tự nhiên - thế thôi, chẳng ai lo liệu toan tính hay thay đổi được.Tôi đã gặp một con người như thế- cả đời chỉ sống bên lỡ của dòng sông. Ngày ngày lặn hụp đáy sông kiếm sống. Nhà chú sống phía bên lỡ sông Bồ, trận lụt năm kia trôi cả nhà cửa, chỉ còn con đò nhỏ làm nơi tạm cư cuộc sống vạn chài. Chẳng biết bây chừ chú có còn lặn cát kiếm cơm như ngày trước, gia đình đã kịp lên bờ định cư hay còn lênh đênh trên sông nước?
Hóa ra dòng sông nào cũng có linh hồn, thần thái riêng gắn bó với cuộc đời mỗi người. Nhà ngoại tôi trước mặt là con hói -một nhánh nhỏ của sông Bồ. Lũ chúng tôi ngày nào cũng lặn hụp bến sông. Bao giờ cũng thế cả bọn chạy ào lên bãi bồi Nam Phù, thả mình trên sông lớn rồi xuôi dòng về hói. Vậy mà có lần tôi đuối ở hói này. Mùa lụt năm ấy trên đường về tôi quyết định bơi qua hói. Mọi khi chỉ mấy sải tay là tới nhưng lần này tôi đuốc sức mặc dòng nước cuốn trôi. Người đã địu tôi vào bờ là mụ Cai. Bà ngoại tôi bảo: ma rà kéo cháu đi, thần sông thần hói lôi cháu đi phải làm vắt cơm quả trứng để tạ tội với thần. Nhiều lần sau này mỗi lần về quê tôi cố tìm mụ Cai- ân nhân lớn đời tôi nhưng bặt vô âm tín, người làng quê vốn vô tâm chẳng quan tâm chi ơn nghĩa, coi chuyện đạo lý ở đời là lẽ tự nhiên- thế thôi. Một chân lý bất tuyệt đã được hiển ngôn - trước sự giận dữ và cuồng nộ của thiên nhiên, con người bỗng nhiên thấy mình cô đơn, bé nhỏ, bất lực hay là cái hữu hạn vô thường của đời người trước cái bất tận vô hạn của giới tự nhiên.
Phò Nam là tên làng tôi, nhỏ nhắn và lặng lẽ bên bờ sông Bồ của xứ Quảng Điền nghèo khó. Điều hạnh phúc vô bờ là người làng tôi được sống cả hai bên lở và bồi của con sông quê, hình như duy nhất chỉ một làng quê đặc ân như thế: Phò Nam Làng và Phò Nam Phe. Thi vị hơn cả là làng có con đò đón đưa hai bờ, sẻ chia bao hạnh ngộ buồn vui. Những chuyến ghe đầy ắp chuyển sắn khoai, lúa bắp và các thứ qua lại tấp nập ngày vụ chiêm được mùa. Những ánh mắt lo âu, thẩn thờ trong cơn túng bấn những lúc giáp hạt thiếu ăn. Rồi chuyện lũ lụt trên sông Bồ làm người làng tôi phải ly hương tha phương khắp chốn… Và tôi cũng thế, bỏ làng bỏ quê cơm đùm gạo bới “lên dinh” trọ học. Ngày ra đi mạ mừng mừng tủi tủi còn người làng ngóng theo với niềm kỳ vọng ngày vinh quy. Thế mà chàng trai quê năm xưa giờ đã bạc tóc vẫn loay hoay với bao nặng nhẹ lẫn lộn chẳng làm nên trò trống gì- phụ lòng uổng công bao người trông đợi…Chiều nay từ nơi xa mắt dõi về quê cũ, tôi nghe lòng nặng trĩu. Cảm ơn giai điệu và ca từ của nhạc sĩ Hoàng Hiệp đã đưa tôi trở về với sông quê- dù rằng dòng sông của ông mãi tận trời Nam: “ Quê tôi ai cũng có một dòng sông bên nhà/ Con sông quê gắn bó với tuổi thơ đời tôi/ Bao năm xa quê ấy trong mơ tôi vẫn thấy/ Hôm nay tôi trở về lòng chợt vui thấy sông không già…”.
Tôi đã đọc được đâu đó triết lý về những dòng sông: Con sông xứ sở dù lớn nhỏ, dài ngắn, dù thơ mộng dạt dào hay u trệ khô cằn hay… là gì đi nữa - nó vẫn mang tải trên mình những nền văn hóa văn minh cho dân tộc, sông mang hạt phù sa tô điểm những miền gái đẹp và làm thay đổi bao chuyện giữa cõi đời đậm chất nhân bản mà tự con người không thể thay thế được. Lý Bạch đã có những câu thơ tuyệt vời treo trên lầu cao về dòng sông : “ Quân bất kiến/ Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai/ Lưu bôn đáo hải bất phục hồi…”- Trương tiến tửu - Há chẳng thấy nước Hoàng Hà từ trời đổ xuống/ Chảy tuột biển đông chẳng quay về…- Hãy cạn chén! Hoàng Hà của ông như chàng lực sĩ cuồn cuộn tráng lệ chảy ra biển đông. Hay sông Dương Tử đi vào thơ ông như giải lụa thắt lưng trời “ Cô phàm viễn ảnh bích không tận/ Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu”. Viết ra như thế hẳn Tiên Thi yêu quê hương đất nước biết nhường nào? Sông Bồ của tôi không gì thể sánh bằng. Thế mà trong mỗi chúng tôi, ai cũng yêu sông Bồ theo kiểu của riêng mình. Có cụ già đã tới tuổi “cổ lai hy” lưu lạc tận trời Tây, dặn dò trăn trối : “ Mai này qua đời, cháu con cố đưa tao về lại bên sông Bồ, ở đó tao có mọi thứ mà ở đây không thể có....”. Bạn tôi, bao năm lưu lạc ra vào lợi danh, cuối đời đã ung dung về dựng thảo am bên sông Bồ vui thú điền viên tắm mát nơi bến sông quê. Nhiều đêm thao thức, chợp mắt tôi nghe thanh âm tiếng gọi đò vang vọng liên hồi, tỉnh ra lòng bồn chồn bao suy tư dự cảm. Những lúc như thế cõi lòng như rỗng không, tôi đau đáu hoài cảm với dòng sông quê- dù chậm nhưng tôi sẽ trở về với Bồ giang yêu dấu…

(*) Hồ trường do Nguyễn Bá Trác (1881-1945) dịch lại từ một ca khúc Trung Quốc đăng trên tạp chí Nam Phong, nhiều người yêu thơ rượu lâu nay đã tán dương cái phong vị hào sảng trong bài dịch này.


Lê Quang Kết
Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Bảo Lộc
454 Trần Phú, Tp. Bảo Lộc, Lâm Đồng
ĐT: 0633 717 123 - 0907 615 510 - email: lequangket54@yahoo.com

Thứ Bảy, 15 tháng 5, 2010

Truyện ngắn- Người mẹ điên

Người mẹ điên

Nguyên tác Hoa Ngữ: Vương Hằng Tích
Bản dịch tiếng Việt: Trang Hạ

Hai mươi ba năm trước, có một người con gái trẻ lang thang qua làng tôi, đầu bù tóc rối, gặp ai cũng cười cười, cũng chả ngại ngần ngồi tè trước mặt mọi người. Vì vậy, đàn bà trong làng đi qua cô gái thường nhổ nước bọt, có bà còn chạy lên trước dậm chân, đuổi "Cút cho xa!". Thế nhưng cô gái không bỏ đi, vẫn cứ cười ngây dại quanh quẩn trong làng.
Hồi đó, cha tôi đã 35 tuổi. Cha làm việc ở bãi khai thác đá bị máy chém cụt tay trái, nhà lại quá nghèo, mãi không cưới được vợ. Bà nội thấy con điên có sắc vóc, thì động lòng, quyết định mang cô ta về nhà cho cha tôi, làm vợ, chờ bao giờ cô ta đẻ cho nhà tôi "đứa nối dõi" sẽ đuổi đi liền. Cha tôi dù trong lòng bất nhẫn, nhưng nhìn cảnh nhà, cắn răng đành chấp nhận. Thế là kết quả, cha tôi không phải mất đồng xu nào, nghiễm nhiên thành chú rể.

Khi mẹ sinh tôi, bà nội ẵm cháu, hóp cái miệng chẳng còn mấy cái răng vui sướng nói: "Cái con mẹ điên này, mà lại sinh cho bà cái đứa chống gậy rồi!". Có điều sinh tôi ra, bà nội ẵm mất tôi, không bao giờ cho mẹ đến gần con.

Mẹ chỉ muốn ôm tôi, bao nhiêu lần đứng trước mặt bà nội dùng hết sức gào lên: "Đưa, đưa tôi..." bà nội mặc kệ. Tôi còn trứng nước như thế, như khối thịt non, biết đâu mẹ lỡ tay vứt tôi đi đâu thì sao? Dù sao, mẹ cũng chỉ là con điên. Cứ mỗi khi mẹ khẩn cầu được bế tôi, bà nội lại trợn mắt lên chửi: "Mày đừng có hòng bế con, tao còn lâu mới đưa cho mày.

Tao mà phát hiện mày bế nó, tao đánh mày chết. Có đánh chưa chết thì tao cũng sẽ đuổi mày cút!". Bà nội nói với vẻ kiên quyết và chắc chắn. Mẹ hiểu ra, mặt mẹ sợ hãi khủng khiếp, mỗi lần chỉ dám đứng ở xa xa ngó tôi. Cho dù vú mẹ sữa căng đầy cứng, nhưng tôi không được một ngụm sữa mẹ nào, bà nội đút từng thìa từng thìa nuôi cho tôi lớn. Bà nói, trong sữa mẹ có "bệnh thần kinh", nếu lây sang tôi thì phiền lắm.

Hồi đó nhà tôi vẫn đang giãy giụa giữa vũng bùn lầy của nghèo đói. Đặc biệt là sau khi có thêm mẹ và tôi, nhà vẫn thường phải treo niêu. Bà nội quyết định đuổi mẹ, vì mẹ không những chỉ ngồi nhà ăn hại cơm nhà, còn thỉnh thoảng làm thành tiếng thị phi.

Một ngày, bà nội nấu một nồi cơm to, tự tay xúc đầy một bát cơm đưa cho mẹ, bảo: "Con dâu, nhà ta bây giờ nghèo lắm rồi, mẹ có lỗi với cô. Cô ăn hết bát cơm này đi, rồi đi tìm nhà nào giàu có hơn một tí mà ở, sau này cấm không được quay lại đây nữa, nghe chửa?". Mẹ tôi vừa và một miếng cơm to vào mồm, nghe bà nội tôi hạ "lệnh tiễn khách" liền tỏ ra kinh ngạc, ngụm cơm đờ ra lã tã trong miệng. Mẹ nhìn tôi đang nằm trong lòng bà, lắp bắp kêu ai oán: "Đừng... đừng...".

Bà nội sắt mặt lại, lấy tác phong uy nghiêm của bậc gia trưởng nghiêm giọng hét: "Con dâu điên mày ngang bướng cái gì, bướng thì chả có quả tốt lành gì đâu. Mày vốn lang thang khắp nơi, tao bao dung mày hai năm rồi, mày còn đòi cái gì nữa? Ăn hết bát đấy rồi đi đi, nghe thấy chưa hả?". Nói đoạn bà nội lôi sau cửa ra cái xẻng, đập thật mạnh xuống nền đất như Dư Thái Quân nắm gậy đầu rồng, "phầm!" một tiếng.

Mẹ sợ chết giấc, khiếp nhược lén nhìn bà nội, lại chậm rãi cúi đầu nhìn xuống bát cơm trước mặt, có nước mắt rưới trên những hạt cơm trắng nhệch. Dưới cái nhìn giám sát, mẹ chợt có một cử động kỳ quặc, mẹ chia cơm trong bát một phần lớn sang cái bát không khác, rồi nhìn bà một cách đáng thương hại.

Bà nội ngồi thẫn thờ, hoá ra, mẹ muốn nói với bà rằng, mỗi bữa mẹ sẽ chỉ ăn nửa bát, chỉ mong bà đừng đuổi mẹ đi. Bà nội trong lòng như bị ai vò cho mấy nắm, bà nội cũng là đàn bà, sự cứng rắn của bà cũng chỉ là vỏ ngoài. Bà nội quay đầu đi, nuốt những nước mắt nóng đi, rồi quay lại sắt mặt nói: "Ăn mau ăn mau, ăn xong còn đi.

Ở nhà này cô cũng chết đói thôi!". Mẹ tôi dường như tuyệt vọng, đến ngay cả nửa bát cơm con cũng không ăn, thập thễnh bước ra khỏi cửa, nhưng mẹ đứng ở bậc cửa rất lâu không bước ra. Bà nội dằn lòng đuổi: "Cô đi, cô đi, đừng có quay đầu lại. Dưới gầm trời này còn nhiều nhà người ta giàu!". Mẹ tôi quay lại, đưa một tay ra phía lòng bà, thì ra, mẹ muốn được ôm tôi một tí.

Bà nội lưỡng lự một lúc, rồi đưa tôi trong bọc tã lót cho mẹ. Lần đầu tiên mẹ được ẵm tôi vào lòng, môi nhắp nhắp cười, cười hạnh phúc rạng rỡ. Còn bà nội như gặp quân thù, hai tay đỡ sẵn dưới thân tôi, chỉ sợ mẹ lên cơn điên, quăng tôi đi như quăng rác. Mẹ ôm tôi chưa được ba phút, bà nội không đợi được giằng tôi trở lại, rồi vào nhà cài chặt then cửa lại.

Khi tôi bắt đầu lờ mờ hiểu biết một chút, tôi mới phát hiện, ngoài tôi ra, bọn trẻ chơi cùng tôi đều có mẹ. Tôi tìm cha đòi, tìm bà đòi, họ đều nói, mẹ tôi chết rồi. Nhưng bọn bạn cùng làng đều bảo tôi: "Mẹ mày là một con điên, bị bà mày đuổi đi rồi." Tôi tìm bà nội vòi vĩnh, đòi bà phải trả mẹ lại, còn chửi bà là đồ "bà lang sói", thậm chí hất tung mọi cơm rau bà bưng cho tôi. Ngày đó, tôi làm gì biết "điên" nghĩa là cái gì đâu, tôi chỉ cảm thấy nhớ mẹ tôi vô cùng, mẹ trông như thế nào nhỉ? mẹ còn sống không?

Không ngờ, năm tôi sáu tuổi, mẹ tôi trở về sau 5 năm lang thang.

Hôm đó, mấy đứa nhóc bạn tôi chạy như bay tới báo: "Thụ, mau đi xem, mẹ mày về rồi kìa, mẹ bị điên của mày về rồi!" Tôi mừng quá đít nhổng nhổng, co giò chạy vội ra ngoài, bà nội và cha cũng chạy theo tôi. Đây là lần đầu tiên tôi nhìn thấy mẹ, kể từ khi biết nhớ. Người đàn bà đó vẫn áo quần rách nát, tóc tai còn những vụn cỏ khô vàng khè, có trời mới biết là do ngủ đêm trong đống cỏ nào. Mẹ không dám bước vào cửa, nhưng mặt hướng về phía nhà tôi, ngồi trên một hòn đá cạnh ruộng lúa trước làng, trong tay còn cầm một quả bóng bay bẩn thỉu.

Khi tôi và lũ trẻ đứng trước mặt mẹ, mẹ cuống cuồng nhìn trong đám tôi tìm con trai mẹ. Cuối cùng mẹ dán chặt mắt vào tôi, nhìn tôi chòng chọc, nhếch mép bảo: "Thụ... bóng... bóng...". Mẹ đứng lên, liên tục giơ lên quả bóng bay trong tay, dúi vào lòng tôi với vẻ nịnh nọt. Tôi thì liên tục lùi lại. Tôi thất vọng ghê gớm, không ngờ người mẹ ngày đêm tôi nhớ thương lại là cái hình người này. Một thằng cu đứng cạnh tôi kêu to: "Thụ, bây giờ mày biết con điên là thế nào chưa? Là mẹ mày như thế này đấy!"

Tôi tức tối đáp lại nó: "Nó là mẹ mày ấy! Mẹ mày mới là con điên ấy, mẹ mày mới là thế này!" Tôi quay đầu chạy trốn. Người mẹ bị điên này tôi không thèm. Bà nội và bố thì lại đưa mẹ về nhà. Năm đó, bà nội đuổi mẹ đi rồi, lương tâm bà bị chất vấn dày vò, bà càng ngày càng già, trái tim bà cũng không còn sắt thép được nữa, nên bà chủ động đưa mẹ về, còn tôi lại bực bội, bởi mẹ đã làm tôi mất thể diện.

Tôi không bao giờ tươi tỉnh với mẹ, chưa bao giờ chủ động nói với mẹ, càng không bao giờ gọi "Mẹ!", khi phải trao đổi với mẹ, tôi gào là chủ yếu, mẹ không bao giờ dám hé miệng. Nhà không thể nuôi không mẹ mãi, bà nội quyết định huấn luyện cho mẹ làm việc vặt. Khi đi làm đồng, bà nội dắt mẹ đi "quan sát học hỏi", bà bảo mẹ không nghe lời sẽ bị đánh đòn.

Sau một thời gian, bà nội nghĩ mẹ đã được dạy dỗ tương đối rồi, liền để mẹ tự đi cắt cỏ lợn. Ai ngờ mẹ chỉ cắt nửa tiếng đã xong cả hai bồ "cỏ lợn". Bà nội vừa nhìn đã tá hỏa sợ hãi, cỏ mẹ cắt là lúa giống vừa làm đồng trỗ bông trong ruộng nhà người ta. Bà nội vừa sợ vừa giận phát cuồng chửi rủa: "Con mẹ điên lúa và cỏ mà không phân biệt được...

" Bà nội còn đang chưa biết nên xoay xở ra sao, thì nhà có ruộng bị cắt lúa tìm tới, mắng bà cố ý dạy con dâu làm càn. Bà nội tôi lửa giận bốc phừng phừng, trước mặt người ta lấy gậy đánh vào eo lưng con dâu, chửi: "Đánh chết con điên này, mày cút ngay đi cho bà..."

Mẹ tuy điên, nhưng vẫn biết đau, mẹ nhảy nhỏm lên chạy trốn đầu gậy, miệng phát ra những tiếng lắp bắp sợ hãi: "Đừng... đừng...". Sau rồi, nhà người ta cũng cảm thấy chướng mắt, chủ động bảo: "Thôi, chúng tôi cũng chẳng bắt đền nữa. Sau này giữ cô ta chặt một tí là được...". Sau khi cơn sóng gió qua, mẹ oại người dưới đất thút thít khóc.

Tôi khinh bỉ bảo: "Cỏ với lúa mà cũng chả phân biệt được, mày đúng là lợn!" Lời vừa dứt, gáy tôi bị một cái tát lật, là bà. Bà trừng mắt bảo tôi: "Thằng ngu kia, mày nói cái gì đấy? Mày còn thế này nữa? Đấy là mẹ mày đấy!" Tôi vùng vằng bĩu môi: "Cháu không có loại mẹ điên khùng thế này!"

"A, mày càng ngày càng láo. Xem bà có đánh mày không!" Bà nội lại giơ tay lên, lúc này chỉ thấy mẹ như cái lò xo bật từ dưới đất lên, che giữa bà nội và tôi, mẹ chỉ tay vào đầu mẹ, kêu thảng thốt: "Đánh tôi, đánh tôi!"

Tôi hiểu rồi, mẹ bảo bà nội đánh mẹ, đừng đánh tôi. Cánh tay bà trên không trung thõng xuống, miệng lẩm bẩm: "Con mẹ điên này, trong lòng nó cũng biết thương con đây!". Tôi vào lớp một, cha được một hộ chuyên nuôi cá làng bên mời đi canh hồ cá, mỗi tháng lương 50 tệ. Mẹ vẫn đi làm ruộng dưới sự chỉ bảo của bà, chủ yếu là đi cắt cỏ lợn, mẹ cũng không còn gây ra vụ rầy rà nào lớn nữa.

Nhớ một ngày mùa đông đói rét năm tôi học lớp ba, trời đột ngột đổ mưa, bà nội sai mẹ mang ô cho tôi. Có lẽ trên đường đến trường tôi mẹ đã ngã ì oạch mấy lần, toàn thân trông như con khỉ lấm bùn, mẹ đứng ở ngoài cửa sổ lớp học nhìn tôi cười ngớ ngẩn, miệng còn gọi tôi: "Thụ... ô...".

Có mấy đứa bạn tôi cười khúc khích, tôi như ngồi trên bàn chông, oán hận mẹ khủng khiếp, hận mẹ không biết điều, hận mẹ làm tôi xấu hổ, càng hận thằng Phạm Gia Hỷ cầm đầu trêu chọc. Trong lúc nó còn đang khoa trương bắt chước mẹ, tôi chộp cái hộp bút trước mặt, đập thật mạnh cho nó một phát, nhưng bị Phạm Gia Hỷ tránh được.

Nó xông tới bóp cổ tôi, chúng tôi giằng co đánh nhau. Tôi nhỏ con, vốn không phải là đối thủ của nó, bị nó dễ dàng đè xuống đất. Lúc này, chỉ nghe một tiếng "vút" kéo dài từ bên ngoài lớp học, mẹ giống như một đại hiệp "bay" ào vào, một tay tóm cổ Phạm Gia Hỷ, đẩy ra tận ngoài cửa lớp. Ai cũng bảo người điên rất khỏe, thật sự đúng là như vậy. Mẹ dùng hai tay nhấc bổng thằng bắt nạt tôi lên trên không trung, nó kinh sợ kêu khóc gọi bố mẹ, một chân béo ị khua khoắng đạp loạn xạ trên không trung. Mẹ không thèm để ý, vứt nó vào ao nước cạnh cổng trường, rồi mặt thản nhiên, mẹ đi ra.

Mẹ vì tôi gây ra đại hoạ, mẹ lại làm như không có việc gì xảy ra. Trước mặt tôi, mẹ lại có vẻ khiếp nhược, nhìn tôi vẻ muốn lấy lòng. Tôi hiểu ra đây là tình yêu của mẹ, dù đầu óc mẹ không tỉnh táo, thì tình yêu của mẹ vẫn tỉnh táo, vì con trai của mẹ bị người ta bắt nạt. Lúc đó tôi không kìm được kêu lên: "Mẹ!" đây là tiếng gọi đầu tiên kể từ khi tôi biết nói.

Mẹ sững sờ cả người, nhìn tôi rất lâu, rồi y hệt như một đứa trẻ con, mặt mẹ đỏ hồng lên, cười ngớ ngẩn. Hôm đó, lần đầu tiên hai mẹ con tôi cùng che một cái ô về nhà. Tôi kể sự tình cho bà nội nghe, bà nội sợ rụng rời ngã ngồi lên ghế, vội vã nhờ người đi gọi cha về. Cha vừa bước vào nhà, một đám người tráng niên vạm vỡ tay dao tay thước xông vào nhà tôi, không cần hỏi han trắng đen gì, trước tiên đập phá mọi bát đũa vò hũ trong nhà nát như tương, trong nhà như vừa có động đất cấp chín.

Đây là những người do nhà Phạm Gia Hỷ nhờ tới, bố Phạm hung hãn chỉ vào cha tôi nói: "Con trai tao sợ quá đã phát điên rồi, hiện đang nằm nhà thương. Nhà mày mà không mang 1000 tệ trả tiền thuốc thang, mẹ mày tao cho một mồi lửa đốt tan cái nhà mày ra."

Một nghìn tệ? Cha đi làm một tháng chỉ 50 tệ! Nhìn những người sát khí đằng đằng nhà họ Phạm, cha tôi mắt đỏ lên dần, cha nhìn mẹ với ánh mắt cực kỳ khủng khiếp, một tay nhanh như cắt dỡ thắt lưng da, đánh tới tấp khắp đầu mặt mẹ. Một trận lại một trận, mẹ chỉ còn như một con chuột khiếp hãi run rẩy, lại như một con thú săn đã bị dồn vào đường chết, nhảy lên hãi hùng, chạy trốn, cả đời tôi không thể quên tiếng thắt lưng da vụt lạnh lùng lên thân mẹ và những tiếng thê thiết mẹ kêu. Sau đó phải trưởng đồn cảnh sát đến ngăn bàn tay bạo lực của cha.

Kết quả hoà giải của đồn cảnh sát là: Cả hai bên đều có tổn thất, cả hai không nợ nần gì nhau cả. Ai còn gây sự sẽ bắt luôn người đó. Đám người đi rồi, cha tôi nhìn khắp nhà mảnh vỡ nồi niêu bát đũa tan tành, lại nhìn mẹ tôi vết roi đầy mình, cha tôi bất ngờ ôm mẹ tôi vào lòng khóc thảm thiết.

"Mẹ điên ơi, không phải là tôi muốn đánh mẹ, mà nếu như tôi không đánh thì việc này không thể dàn xếp nổi, nhà mình làm gì có tiền mà đền cho người. Bởi nghèo khổ quá mà thành hoạ đấy thôi!". Cha lại nhìn tôi nói: "Thụ, con phải cố mà học lên đại học. Không thì, nhà ta cứ bị người khác bắt nạt suốt đời, nhé!". Tôi gật đầu, tôi hiểu.

Mùa hè năm 2000, tôi thi đỗ vào trung học với kết quả xuất sắc. Bà nội tôi vì làm việc cực nhọc cả đời mà mất trước đó, gia cảnh ngày càng khó khăn hơn. Cục Dân Chính khu tự trị Ân Thi (Hồ Bắc) xếp nhà tôi thuộc diện đặc biệt nghèo đói, mỗi tháng trợ cấp 40 tệ. Trường tôi học cũng giảm bớt học phí cho tôi, nhờ thế tôi mới có thể học tiếp.

Vì học nội trú, bài vở nhiều, tôi rất ít khi về nhà. Cha tôi vẫn đi làm thuê 50 tệ một tháng, gánh tiếp tế cho tôi đặt lên vai mẹ, không ai thay thế được. Mỗi lần bà thím nhà bên giúp nấu xong thức ăn, đưa cho mẹ mang đi. Hai mươi ki lô mét đường núi ngoằn ngoèo ruột dê làm khổ mẹ phải tốn sức ghi nhớ đường đi, gió tuyết cũng vẫn đi. Và thật là kỳ tích, hễ bất cứ việc gì làm vì con trai, mẹ đều không điên tí nào. Ngoài tình yêu mẫu tử ra, tôi không còn cách giải thích nào khác. Y học cũng nên giải thích khám phá hiện tượng này.

27/4/2003, lại là một chủ nhật, mẹ lại đến, không chỉ mang đồ ăn cho tôi, mẹ còn mang đến hơn chục quả đào dại. Tôi cầm một quả, cắn một miếng, cười hỏi mẹ: "Ngọt quá, ở đâu ra?" Mẹ nói: "Tôi... tôi hái..." không ngờ mẹ tôi cũng biết hái cả đào dại, tôi chân thành khen mẹ: "Mẹ, mẹ càng ngày càng tài giỏi!". Mẹ cười hì hì.

Trước lúc mẹ về, tôi theo thói quen dặn dò mẹ phải cẩn thận an toàn, mẹ ờ ờ trả lời. Tiễn mẹ xong, tôi lại bận rộn ôn tập trước kỳ thi cuối cùng của thời phổ thông. Ngày hôm sau, khi đang ở trên lớp, bà thím vội vã chạy đến trường, nhờ thầy giáo gọi tôi ra ngoài cửa. Thím hỏi tôi, mẹ tôi có đến đưa tiếp tế đồ ăn không? Tôi nói đưa rồi, hôm qua mẹ về rồi.

Thím nói: "Không, mẹ mày đến giờ vẫn chưa về nhà!" Tim tôi thót lên một cái, mẹ tôi chắc không đi lạc đường? Chặng đường này mẹ đã đi ba năm rồi, có lẽ không thể lạc được. Thím hỏi: "Mẹ mày có nói gì không?" Tôi bảo không, mẹ chỉ cho cháu chục quả đào tươi. Thím đập hai tay:" Thôi chết rồi, hỏng rồi, có lẽ vì mấy quả đào dại rồi!" Thím kêu tôi xin nghỉ học, chúng tôi đi men theo đường núi về tìm. Đường về quả thực có mấy cây đào dại, trên cây chỉ lơ thơ vài quả cọc, bởi nếu mọc ở vách đá mới còn giữ được quả.

Chúng tôi cùng lúc nhìn thấy trên thân cây đào có một vết gãy cành, dưới cây là vực sâu trăm thước. Thím nhìn tôi rồi nói: "Chúng ta đi xuống khe vách đá tìm!" Tôi nói: "Thím, thím đừng doạ cháu...". Thím không nói năng kéo tôi đi xuống vách núi...

Mẹ nằm yên tĩnh dưới khe núi, những trái đào dại vương vãi xung quanh, trong tay mẹ còn nắm chặt một quả, máu trên người mẹ đã cứng lại thành đám màu đen nặng nề. Tôi đau đớn tới mức ngũ tạng như vỡ ra, ôm chặt cứng lấy mẹ, gọi: "Mẹ ơi, Mẹ đau khổ của con ơi! Con hối hận đã nói rằng đào này ngọt! Chính là con đã lấy mạng của mẹ... Mẹ ơi, mẹ sống chẳng được hưởng sung sướng ngày nào..." Tôi sát đầu tôi vào khuôn mặt lạnh cứng của mẹ, khóc tới mức những hòn đá dại trên đỉnh núi cũng rớt nước mắt theo tôi.

Ngày 7/8/2003, một trăm ngày sau khi chôn cất mẹ, thư gọi nhập học dát vàng dát bạc của Đại học Hồ Bắc đi xuyên qua những ngả đường mẹ tôi đã đi, chạy qua những cây đào dại, xuyên qua ruộng lúa đầu làng, "bay" thẳng vào cửa nhà tôi. Tôi gài lá thư đến muộn ấy vào đầu ngôi mộ cô tịch của mẹ: "Mẹ, con đã có ngày mở mặt mở mày rồi, MẸ có nghe thấy không? MẸ có thể ngậm cười nơi chín suối rồi!"





Vietbao (Theo: tintuconline.com.vn)

Thứ Ba, 11 tháng 5, 2010

Con chim bồ câu - MS 22

Thứ Hai, 10/05/2010, 22:17 (GMT+7)
Truyện ngắn dự thi văn học tuổi 20

Con chim bồ câu

TTCT - Tôi vô tình cán chết một con chim bồ câu. Bồ câu là loài chim hiền lành nhưng không chậm chạp. Con bồ câu tôi cán chết là một con bồ câu què. Theo phản xạ, nó chạy vài bước rồi bay. Nhưng cái chân què đã không chạy được. Tôi vô tình cán chết nó.

Nàng ngồi sau, cặp mắt lộ ra trên chiếc khẩu trang hốt hoảng, sợ sệt. Chẳng có giọt máu nào như một vụ tai nạn kinh khủng. Con chim bồ câu tội nghiệp nằm đè lên máu của chính mình, chỉ thấy một xác chết rũ rượi. Người đi đường không hề biết tôi vừa gây ra cái chết cho chú chim câu, có biết họ cũng chẳng thèm quan tâm.

Một con bồ câu hay một con ve, con gà chết... thì có nghĩa lý gì trong thế giới ồn ào này chứ? Không ai xúm lại kết tội kẻ đã cán chết một trong những loài đó cả. Phải chăng vì chúng là những con vật quá hiền lành, chưa bao giờ biết nói? Hay người ta giống như tôi, nghĩ rằng làm chết một con vật bé nhỏ thì chẳng có tội tình gì?

Mọi sinh vật có mặt trong thế giới này đều có thể chết bằng những lý do vô tình hay cố ý. Mà cuộc sống thì đã đau đầu bởi biết bao sự kiện. Sự kiện nào quên được thì hãy nhanh chóng quên đi.

Tôi có chạnh lòng đôi chút với vụ tai nạn nhưng rồi tôi đã tha thứ cho mình. Còn nàng hình như không? Nàng im lặng sau lưng tôi, tay bấu vào yên xe. Trái tim phụ nữ mỏng manh hơn đàn ông nên dễ xúc động và khó quên. Nhìn qua kính chiếu hậu tôi thấy đôi mắt nàng ngơ ngác như vừa chứng kiến một biến cố không lời. Chiếc xe chúng tôi bình thản chạy giữa buổi trưa đắt đỏ.

Rồi cũng tới lúc tôi cưới nàng. Thông báo cho bạn bè, rồi nhậu nhẹt. Trên cái bàn tròn, ai đó gọi những con chim bồ câu nướng lu. Những con chim bồ câu sấp cánh nằm trên đĩa, váng mỡ, vàng rụm. Trong cái chết chúng cũng phải xếp hàng và chịu sự chi phối của nghệ thuật sắp đặt. Cứ như chúng sinh ra để dâng hiến.

Không biết vì nhớ hay quên, tôi và nàng không đụng tới một con bồ câu nướng lu nào. Nàng ngồi im, tròn mắt nhìn chiếc đĩa. Rồi như không thể chịu được, nàng chạy ra phòng vệ sinh nôn tơi tả.

- Chúc mừng hai bạn đã can đảm ăn cơm trước kẻng!

Cả bọn lao nhao. Ủa, đó là dấu hiệu của ăn cơm trước kẻng hả? Nhưng “cơm” đâu mà ăn? Tôi... chưa làm gì mà! Tôi cụng ly, cười nửa miệng, ngơ ngác như một công chức mới nhận việc.

Chở nàng về nhà, tôi dềnh dàng ở cổng.

- Sao thế anh? - Nàng mệt mỏi hỏi.

- Em không sao chứ? - Tôi hỏi.

- Ừ, em chỉ hơi mệt.

- Vì sao?

- Sao anh lại hỏi thế?

- Vì sao em lại mệt? - Tôi không biết rằng tự nhiên giọng tôi lại gay gắt.

- Em mệt một chút, thế thôi.

- Phải có lý do để người ta mệt chứ? Ví dụ như phải... có gì chẳng hạn - Tôi run run.

- Em không hiểu? Sao anh lại cáu vì em mệt chứ? Em không có quyền mệt sao?

Có, em có quyền. Tôi gục gặc đầu. Khi đã rồ máy chạy đi tôi còn nghe tiếng gọi của nàng phía sau. Nàng đang hét lên thắc mắc hay phân bua điều gì?

Đó không phải là lần cãi nhau duy nhất trong cuộc tình sắp đến đích của chúng tôi. Càng tiến gần hôn nhân, chúng tôi càng cãi nhau nhiều hơn. Hình như có một lời nguyền của một bà phù thủy dành cho những người sắp trói buộc tự do của mình với nhau suốt đời. Họ phải trải qua những cuộc cãi vã te tua, có lý do hay thậm chí là chẳng có lý do nào hết.

Tôi hẹn nàng đi ăn trưa. Nàng tới, vẻ mặt dàu dạu vì mệt. Lúc nào cũng mệt! Tôi chán lắm rồi. Và trong bóng đêm, khi tôi tìm làn môi nàng, nàng mệt mỏi đẩy tôi ra, vẻ mặt buồn rầu, khó chịu.

- Em lại mệt hả?

- Không, em chán.

- Sao lại chán?

- Đừng hỏi những câu hỏi vì sao nữa. Em chán lắm rồi - Nàng bỗng dưng hét lên.

- Nhưng em chán cái gì? Phải có lý do chứ?

- Mọi thứ đều phải có lý do sao? Anh nhầm rồi. Có vô số thứ chẳng có lý do quái nào hết - Nàng hét lên bằng giọng hoảng loạn.

Đó là giây phút tôi cảm thấy mình mãi mãi không hiểu được phụ nữ. Con người nào trong nàng mà tôi quen biết? Cô gái hiền lành, rụt rè, nói năng nhát gừng như không quan tâm đến chính kiến, suy nghĩ của mình, hay cô gái hoảng loạn, sắp nổi loạn để đấu tranh một điều gì đó? Mà nàng muốn đấu tranh cho điều gì?

- Vì sao? - Tôi buột miệng hỏi.

- Chết tiệt! Đừng hỏi vì sao nữa - Nàng đã biến thành một con người máu lửa.

- Nhưng anh không hiểu.

- Em là ai trong anh?

- Sao em lại hỏi thế?

- Trả lời câu hỏi của tôi đi.

- Người tình, vợ chưa cưới.

- Tôi không hỏi chức danh. Tôi hỏi trong anh tôi là ai?

- ...

- Không trả lời được, phải không? Vì tôi là cái bóng. Tại sao tôi phải nghe lời anh. Hay nói đúng hơn, tôi phải chịu sự sắp xếp của anh cho cuộc đời tôi? Tôi phải mặc áo màu gì trong ngày cưới, chọn nhà hàng nào, ở với anh phải tuân theo một số luật lệ... Tôi chẳng bắt anh tuân theo luật lệ nào hết. Còn tôi, tại sao phải sống theo ý thích của anh?

- Tất cả những đôi tình nhân đều vậy mà. Hòa hợp thì mới ở bên nhau được.

- Tôi ghét điều đó. Tôi đã biến thành cái bóng của đám cưới và hạnh phúc. Một cái bóng.

- Hay lắm! - Tôi nói - Em viết kịch bản cho đoạn kịch này phải không?

- Anh nói gì?

- Cô đã làm điều đó với người khác. Tôi linh cảm điều đó. Thật xấu xa!

- Điều gì?

- Ăn cơm trước kẻng.

- Anh nghĩ thế ư? Bao lâu? - Nàng xúc động mãnh liệt.

- Hai tuần trước. Trong bữa tiệc.

- Chúng ta không tin nổi về nhau. Thật tàn nhẫn! Anh không tin tôi, còn tôi không tin tình yêu anh dành cho tôi.

Đó là những lời cuối cùng tôi nhớ khi chúng tôi còn đứng giáp mặt nhau. Không có đám cưới nào để chúng tôi có dịp giáp mặt nhau trong bữa cơm, khi cùng thay quần áo hay âu yếm nhau trước khi đi làm.

Linh cảm của tôi đã thành hiện thực. Tôi không hiểu phụ nữ! Người phụ nữ gần gũi ở bên cạnh mà tôi đã khám phá giống như một người xa lạ. Nàng là ai? Cô thiếu nữ tóc ngắn ngồi bên thềm nhà, hỏi tôi kiểu tóc mới của nàng có dễ thương không. Người ngồi sau lưng, ôm eo tôi, dựa đầu vào lưng tôi đầy tin cậy. Tôi nhìn vào mắt nàng, chỉ thấy yêu thương và dâng hiến. Tôi không thấy một tia sáng nhỏ nhoi mà tất cả những người phụ nữ như nàng đều có. Tia sáng thông minh, muốn được là mình. Nàng là ai?

Có thể tôi đã nhìn thấy nàng là ai khi tôi là một chàng trai xa lạ và nàng là một cô gái xa lạ. Tôi bị hấp dẫn bởi những tính cách của nàng, một thiếu nữ duyên dáng, cá tính, hơi bốc đồng nhưng nhiều ước mơ và khao khát. Tôi đã nhớ vẻ nàng cười khi nhìn một tia nắng lạc. Nhưng khi đã thuộc về nhau thì tôi quên mất những chi tiết ảo ảnh đó.

Tôi thích có một người yêu ngồi sau lưng mình, tóc dài, dáng thon, ăn nói dễ thương, nhỏ nhẹ. Tôi thích nàng cười với tất cả bạn bè tôi dù cho trong số đó có những tay ăn nói xóc họng, làm nàng ngượng ngùng. Nàng ít khi phản kháng vì không bao giờ có ai nghĩ rằng phản kháng còn có đất sống trong cái vẻ dịu dàng đến từng chi tiết kia. Tôi đã vui vì nàng là một con búp bê mà quên mất trước đây nàng còn là một thiếu nữ cá tính.

Nhưng sao gần đến hôn nhân nàng mới phản kháng để đòi lại một số quyền không đáng có ấy? Tôi không thấy nhiều cô gái hành động như nàng. Nàng phản kháng mà không có lý do, không cần lý do, đòi những quyền mà mới nói ra người ta đã thấy cao xa trong cuộc sống này. Đòi là mình, không làm cái bóng. Đó là những điều hết sức trừu tượng. Trừu tượng đến nỗi chúng tôi phải xa nhau.

Sau đám cưới hụt, chúng tôi còn gặp nhau vài lần trên phố. Một lần chờ đèn đỏ, tôi và nàng đứng cạnh nhau. Bên kia đường là một quán chim nướng lu. Không biết những con chim đang sấp cánh nằm xếp hàng chờ được thiêu ấy là chim cu hay bồ câu? Nhưng mùi nướng thì ngào ngạt như nhau. Cái màu vàng óng, váng mỡ, thơm giòn rụm. Người chờ đèn đỏ đều bất giác ngó qua, chảy nước miếng. Trước mặt tôi là một sư cô. Sư cô trẻ như nàng, nhìn qua đường, rồi bất giác cúi xuống, lầm rầm đọc kinh. Sư cô đọc kinh vì nhớ Phật hay để cầu siêu cho những con chim tội nghiệp ấy?

Ba mươi giây đèn đỏ. Bụi, tiếng chửi nhau khi ai đó không chịu nổi cảnh chen lấn. Mùi khói xe, mồ hôi người, mùi chim nướng. Sư cô cúi đầu đọc kinh. Còn nàng để xe, đi bộ vào lề, ngồi và ói. Nàng không chịu nổi mùi khói xe?

Đèn xanh. Dòng xe ào ào lũ lượt. Tôi muốn đứng lại mà chẳng còn chỗ để quay đầu xe. Cứ như tôi phải tiến lên như một sự thật tàn nhẫn. Mọi người tiến lên, nhưng vẫn chưa thoát khỏi chửi rủa. Tôi để chiếc xe mình trôi theo cái dòng chảy đèn xanh. Hình ảnh phía sau lưu trong óc tôi. Chiếc xe của nàng chơ vơ giữa đường, còn chủ nhân của nó đang nôn trối chết bên vỉa hè. Khi quay đầu xe lại được thì hình ảnh ấy không còn nữa. Cứ như nó đã bị xóa trong bộ nhớ của chiếc máy vi tính. Nhưng khác chứ. Tôi có chui vào thùng rác thì cũng không phục hồi được. Nhưng tiếng cầu kinh của sư cô chắc vẫn còn rơi lại đâu đó trên vỉa hè bụi bặm.

Rất lâu sau đó, khi đã lấy vợ tôi mới gặp lại nàng. Nàng gầy quá nhanh khiến tôi xót xa. Chúng tôi gặp nhau trong một quán nhỏ. Hình ảnh mong manh mới mẻ của nàng khiến tôi thấy nàng giống như một chú chim bồ câu mà ai đó đã thả bay trong bầu trời này. Suốt bữa cơm nàng chỉ gọi những món chay. Tôi sửng sốt nhận ra nàng chưa quên con bồ câu què bé nhỏ.

Tôi - kẻ cán chết nó - đã quên và cũng đã tha thứ cho mình. Nhưng nàng - kẻ ngồi sau, chứng kiến cái chết đó từ đầu đến cuối - vì có trái tim mỏng manh, dễ rung động nên nàng bị ám ảnh. Nàng không quên khi con chim què quay lại nhìn hai con người ngồi trên chiếc xe đã cán chết nó, ánh mắt hốt hoảng, ngơ ngác chứ không hận thù. Nàng không quên nó ngã xuống, dập đầu trên vũng máu của mình.

Không ai dọn cái xác đó. Con chim bồ câu tội nghiệp tiếp tục bị cán chết bởi những bánh xe lơ đễnh, nhưng nó không còn chạy trốn hay phải hốt hoảng nữa. Và nắng đã thiêu khô cái xác ấy, trước khi nó quên lãng vào bụi đường.

Nàng không quên. Hình ảnh ấy sống động tới mức nàng không thể nhìn cái chết của những con bồ câu nướng nằm trên đĩa. Nàng không chịu được mùi thơm từ cơ thể trần trụi của chúng. Nàng đã ăn chay.

Nhưng tại sao nàng lại chia tay tôi? Có dính líu gì tới con chim bồ câu hiền lành kia chứ? Lẽ nào nàng bị sốc khi con chim trước cái chết mà không thể nói. Nàng sợ mình cũng giống nó? Là một bóng ma. Không nói, không thổ lộ tình cảm hay tâm tư mình, không đấu tranh mà sống trong hiền lành, nhịn nhục. Tôi đã quên mất những gì thuộc về nàng, nhất là những khát vọng sâu kín nhất. Nàng sợ mình sẽ giống như con chim bồ câu, không còn biết nói, dù để phản kháng hay kêu ca.

Nhưng hình như những bí ẩn của nàng còn đi xa hơn thế. Mãi sau này, trong các tin buổi sáng viết về một kẻ lang thang nào đó chết vô danh bên đường, tôi mới lờ mờ hiểu được những nỗi sợ đã ám ảnh nàng. Trái tim yếu ớt của nàng linh cảm con chim bồ câu không phải là sinh vật duy nhất tạm biệt thế giới tươi đẹp này trong cô đơn và thờ ơ. Nàng hoảng loạn trước hình ảnh mà vô số người cho là bình thường ấy.

Dĩ nhiên, rất ít thiếu nữ giống như nàng. Sự ngạc nhiên đó khiến tôi tưởng rằng nàng là một chú chim bồ câu hiện hình. Vì giờ đây nàng mỏng manh, mong manh, bí ẩn, buồn buồn như con chim bồ câu xanh xao.

Mỗi lần gặp lại nàng, trái tim tôi lại bị bóp nghẹn. Trong phút chốc, máu không đủ dồn về tim nữa. Tôi sẽ chết nếu nàng đứng lâu trước mặt tôi. Bao giờ, giống như một kẻ bị bỏ rơi, câu hỏi mà tôi muốn hỏi nàng nhất vang lên trong thâm tâm: “Sao em lại bỏ rơi anh? Sao em lại chia tay anh?”. Nhưng tay nàng không đeo nhẫn và sự thật hiển nhiên là tôi đã bỏ rơi nàng.

Đến tận bây giờ, để đổ lỗi cho cuộc tình buồn của mình, tôi vẫn khăng khăng cho rằng chính những con chim bồ câu đã chia lìa chúng tôi. Tôi chờ chúng phản kháng, nhưng loài bồ câu cam chịu trong yên lặng.

Hình như loài bồ câu không cần gì hơn khi có một sư cô cầu nguyện cho chúng và một thiếu nữ mong manh đã ăn chay vì chúng.

Nhưng tôi, tôi đã mất mãi mãi một người tình!

TRUYỆN NGẮN DỰ THI: MS22