Thứ Năm, 31 tháng 3, 2011

B'Lao phố núi- Lê Quang Kết

Bút ký
B’LAO PHỐ NÚI
Lê Quang Kết
Tôi đã rong chơi với Huế tới tuổi “lập thân” rồi bỏ Huế ra đi. Chẳng biết cơ duyên dun dủi nào đã đưa tôi tới định cư với B’Lao hiền hòa bốn mùa hoa trái? Thời gian trôi nhanh, tôi lẩm nhẩm: - Ừ, mới đó mà đã 25 năm- một chặng dài biết bao chồng chất lo toan bận rộn của một đời người. B’lao phố núi - tôi thích gọi thế, dù bây giờ phố núi của tôi đã là Thành phố Bảo Lộc rất trẻ với hương trà bay xa trong tâm tưởng bao người…
Ngày nhỏ B’Lao trong miền ký ức tuổi thơ tôi là những đồn điền trà cao xanh thưa nắng. Ngày tết quê nhà mẹ tôi cố gởi mua gói trà B’Lao thơm ngon, tinh khiết kính lạy tổ tiên. Tôi chưa được cái may mắn thưởng thức hương vị trà B’Lao ngày ấy- “đậm đà, ngon tuyệt, đệ nhất trà”- mọi người bảo thế. Tôi chỉ mường tượng về một B’Lao rừng núi quạnh quẽ như trong bài hát “Sơn nữ ca” của cố nhạc sĩ Trần Hoàn. Chiều buông, những cô gái Thượng váy dài lặng lẽ gùi chè về buôn xa. Tôi nhớ hôm đặt chân tới B’Lao. Từ ngã ba PhiNôm, chiếc xe đò ì ạch quanh co leo đổ dốc, chưa tới 80 cây số đường mà mất hơn ba tiếng, B’Lao mở ra trước mắt tôi, những nương chè trập trùng nối tiếp nhau vươn xa. Tôi nhìn màu xanh vương trong ánh mắt. Bất chợt lung linh trong tôi dòng cảm xúc phố núi- người ở rừng có ánh mắt màu xanh. Bận rộn bao thứ, tôi cũng lộc cộc đạp xe dọc phố trà , nhẩm thầm tên các hiệu trà . Ôi! Ngất ngây hương trà, ngạt ngào hương lài hương sói. Cụ Trần Thuận, người thổ địa xứ này chuyện rằng: Dãy phố trà sang đẹp ấy, ngày tới đất này, họ là kẻ ly hương trắng tay không một tấc đất cắm dùi giờ thành bao danh trà tên tuổi. Trong mắt tôi, phố trà B’Lao với những ngôi nhà cao tầng, tiện nghi, hiện đại có thể sánh với bất kỳ đường phố lớn nào trên đất nước này…
Trà B’Lao từ phố núi vươn xa tận dải đất nghèo khó khúc ruột miền Trung và dài tới Cà Mau phù sa Đất Mũi. Không dừng lại nội địa, trà B’Lao vượt biên giới đến với thị trường Á- Âu- Úc- Phi- Mỹ. Người B’Lao đã liên tục tổ chức 3 kỳ Lễ hội văn hóa trà để giới thiệu thương hiệu trà đến với bầu bạn năm châu. Những hiệu trà tiếng tăm vang bóng một thời: Đỗ Hữu, Quốc Thái, Bảo Tín, Vạn Tâm, Hoa Sen, Minh Hoàng, Hồng Thái… và bao danh trà trẻ của hôm nay: Thiên Thành, Thiên Hương, Rồng Vàng, Tâm Châu, Trâm Anh, Hương Kim Thảo…đang là địa chỉ văn hóa trà quen thuộc, uy tín của du khách ngược xuôi phố núi. Gần trăm năm qua biết bao thăng trầm, người B’Lao vẫn không rời xa cây chè nghề trà. Dân gian dạy rằng: “Dù ai ruộng đất bề bề/ Sao ra bằng có một nghề trong tay”. Nghề nào cũng lắm công phu, nghề trà B’Lao cũng vậy. Không công phu sao được? Người Nhật đã thưởng thức trà như một lễ nghi văn hóa - tôn giáo khi dùng khái niệm “Trà đạo”; nhà văn Tào Tuyết Cần viết nghệ thuật ẩm trà trong “Hồng Lâu Mộng” đụng tới cả đất trời. Riêng tôi, hình như nhiễm chứng ưu du nên lòng cứ bận tâm về những nơi chốn đón nhận hương trà B’Lao - họ suy tưởng gì về phố núi của tôi? Văn chương kim cổ đã luận bàn tới tiên tửu tục tửu nhưng chẳng nghe ai nhắc chuyện trà lậu trà thô. Bốn mùa xuân hạ thu đông, người ta uống trà để “phản quan tự kỷ”- tìm thấy chính mình, để sẻ chia, để mở lòng dung thông; chiêu ấm trà nghe tâm bình yên, một chút lắng sâu lòng từ tâm hỷ xả với đời với người…
Cái mới của cây chè nghề trà hôm nay đang là mối quan tâm của người B’Lao- đó là thay thế những vườn chè hạt pha tạp già cỗi bằng chè giâm cành và chè Oolong cao cấp. Ngoài các giống TB 14, LD 97 bản địa, nông dân vùng chè B’Lao đang làm quen với các loại giống mới du nhập từ Đài Loan như: Kim Tuyên, Tứ Quý, Thúy Ngọc…Hội thảo về cây chè B’Lao cuối năm 2010 đã xác định: Với diện tích 25 ngàn ha trên địa bàn Bảo Lộc, Bảo Lâm dần dần thay chè bằng giống mới thì đến năm 2015 năng suất chè sẽ tăng gấp đôi- khoảng 300 ngàn tấn chè búp tươi trên năm- điều này đồng nghĩa với kỷ lục mới được thiết lập, trên mỗi hecta đất nông nghiệp sẽ doanh thu ba trăm triệu đồng mỗi năm- con số đang là niềm mơ ước của nông dân cả nước. B’Lao còn là địa bàn đầu tiên áp dụng công nghệ sinh học để làm ra sản phẩm chè đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm; mô hình “Du lịch sinh thái chè” lần đầu tiên sẽ xuất hiện trên xứ trà B’Lao và là điểm đến thú vị, hấp dẫn đối với du khách gần xa…
Hình như sách vở đâu đó đã đề cập- chiêm nghiệm: Uống trà là một thói quen tao nhã, hướng nội để thanh tâm tĩnh trí, hướng ngoại để kết giao tri âm tri kỷ. Nhịp sống mới đang ngày càng năng động và hiện đại, con người lại càng khát khao tìm về với vẻ đẹp thuần khiết bình dị mộc mạc của nghệ thuật ẩm trà… Và như thế trồng chè nghề trà trên đất B’Lao sẽ mãi tỏa hương trong dòng chảy văn hóa dân tộc và nhân loại.
Những năm của thập kỷ 80, phố núi của tôi rộ lên chuyện tằm tang. Dâu tằm tơ lụa vốn là ngành nghề lâu đời của người Việt Thường đất Văn Lang thuở xưa. Thần phả đền Cổ Đô- Ba Vì truyền tụng: Công chúa Thiều Hoa con vua Hùng thứ VI nết na, xinh đẹp. Trời ban cho nàng phép lạ nghe được tiếng của muôn loài. Một lần du xuân thưởng ngoạn, công chúa mục thi lễ hội họ nhà bướm. Chúng bướm diện bộ cánh mới khoe sắc, có chú bướm lặng lẽ, trông nó xấu xí nhưng cần cù, chăm chỉ. Bướm khiêm tốn nhẹ nhàng thưa với công chúa: Nó chẳng đẹp và không nhởn nhơ bay lượn như bao bướm khác nhưng sâu bướm nhả ra một thứ tơ óng ánh tuyệt đẹp. Công chúa vua Hùng thông minh tài trí đã nghĩ ra cách kéo sợi từ chú sâu bướm kia dệt nên những tấm vải mỏng, đẹp, bền, duyên dáng tiến cung mừng thọ vua cha. Nghề tằm tang Văn Lang có từ đấy. Hơn hết, đối với người nghèo ở nông thôn và miền núi và người B’Lao, cây dâu con tằm vẫn là cơ hội thoát nghèo, có thể vươn lên làm giàu trên chính mảnh đất thôn bản mình…
Lá dâu là thức ăn duy nhất cho con tằm, chưa khác hơn được- những thử nghiệm về thức ăn thay thế chỉ được phép 5-7% nhưng khá tốn kém. Điều đơn giản và dễ hiểu là phải có nhiều lá dâu - sau đó mới nói chuyện tằm-kén-tơ-lụa. Đã có những phác thảo triển vọng về phục hồi và tăng diện tích cây dâu- đó là điều cần thiết nhưng cũng lắm trăn trở bức xúc. Một thời việc khai hoang đất đồi để trồng dâu đã làm triệt tiêu điểm hút nước, cây liên hệ chẳng còn, cả đồi dâu thiếu nước vào mùa khô, trơ trụi lá trên cao đứng chờ trời. Câu hỏi được đặt ra: - Mở rộng diện tích hay tìm cách nâng sản lượng lá dâu trên đơn vị diện tích đã có? - Trồng dâu trên đất nào là tối ưu? - Kinh nghiệm dân gian về trồng dâu trên bãi sông, đất sình, đất trũng là điều không được phép quên. Ở Hòa Ninh- Di Linh có hộ chỉ một vài sào dâu mà đủ lá nuôi 10 lứa tằm gối mỗi năm, bình quân lứa nào cũng cho cho 35- 40kg kén. Lượng lá dâu tương ứng không dưới ba tấn mỗi năm, gấp năm lần năng suất lá dâu đại trà hiện tại. Hỏi ra mới hay bà con dâu trồng gần khu sình quanh năm đủ nước. Tiền bán kén trên một sào dâu tới 20 triệu đồng mỗi năm- khó có cây con nào sánh kịp? Bà con nuôi tằm giỏi vẫn chờ mong ngày cây dâu con tằm hồi sinh trên đất B’Lao?
Phố núi B’Lao là thành phố trẻ chưa tròn một năm ngày được chính thức công nhận đô thị loại III trực thuộc tỉnh ( 8-4-2010). Người B’Lao có bao điều buồn vui chưa kịp nói. B’Lao người lành đất hiền. Lại có người ví von: B’Lao có sức hút kỳ lạ với những tâm hồn lãng đãng muốn tìm nơi chốn yên lành. Tôi không dám quả quyết. Có điều kỳ diệu là…bạn tôi- thi sĩ, bao năm lãng du phiêu bạt khắp chốn chưa chịu định cư đất nào. Người kể cũng lạ. Tính tuổi mụ anh đã “tri thiên mệnh” mà chẳng màng chi vợ con. Hồi ở Huế, chúng tôi trêu đùa gọi anh là nhà thơ đãng tử. Có lần thư về Huế cho anh, tôi ba hoa triết lý: “ Sự hòa nhập giữa các miền làm cho B’Lao có dáng vẻ riêng phố núi. Cái nhẹ nhàng, kín đáo, trang nhã của xứ Huế nên thơ pha vẻ cầu kỳ, sâu sắc, thâm thúy đất Bắc. Những cơn mưa bất chợt, một chút nắng phương Nam, những buổi chớm thu sương và cái se lạnh mỗi sáng làm cho B’Lao có cả bốn mùa trong ngày. Vợ chồng mình mong ông đến. Biết đâu B’Lao nhân hòa địa lợi hợp với tâm hồn ông…”
Bất ngờ nhà thơ đãng tử ghé B’Lao. Chúng tôi mừng vui đón tiếp, sắp xếp để anh có điều kiện tự do đây đó. Mấy hôm đầu chẳng thấy anh đi đâu chỉ loay hoay cuốc xới vườn chè quanh nhà. Lâu sau, đãng tử siêng đi- sáng đi, chiều đi và đôi khi đi cả tối. Vợ tôi vốn quý anh để tâm theo dõi. Rồi có người lối phố thầm thì to nhỏ- “tẩm ngẩm thế mà có bồ đấy”. Chuyện đùa mà thật, nhà thơ quen một nàng B’Lao hơi đứng tuổi nhưng còn duyên chán. Họ cưới, chăm chút vườn chè, thu hái, vo xào chè, sấy chè, tính chuyện ướp hương mở quán nhỏ. Dần dà quán đông khách, thuận vợ thuận chồng ấm êm. Mùng tám tháng ba rồi gặp anh đầu dốc phố, đãng tử tươi vui khoe ríu rít: “- Bả vừa siêu âm, một quý tử”- chuyện hiếm hoi với những phụ nữ quá thì. Rồi anh cười thi vị : - Đất trời giao hòa với hương trà B’Lao đấy!

-----------------------------------------------------------------------------------
Lê Quang Kết, 20 Nguyễn Thái Bình, Tp. Bảo Lộc

Thứ Hai, 21 tháng 3, 2011

Nguyễn Đức Sơn:VÒNG QUAY SINH TỬ- Đinh Từ Bích Thúy


Nguyễn Đức Sơn: Vòng Quay Sinh Tử
Đinh Từ Bích Thúy Chia sẻ - ShareThis ♦ 3 bình luận ♦ 9.02.2011

Nguyễn Đức Sơn trong thập niên 1970 (ảnh Cao Lĩnh)
Tôi bắt đầu tìm hiểu về Nguyễn Đức Sơn khi bất chợt đọc được đoạn văn nói về ông trong bài viết của nhà thơ Nguyễn Đình Toàn trên báo Người Việt online (đăng ngày 11 tháng 11 năm 2006):
Thay vì “làm học trò không có sách cầm tay, có tâm sự đi nói cùng cây cỏ” (Ðinh Hùng), chàng trai mới lớn trong thơ Nguyễn Ðức Sơn giấu trong cặp “chiếc băng vệ sinh” nhặt được ở đâu đó ngoài đường.
Người đàn bà, người nữ, xuất hiện trong thơ Nguyễn Ðức Sơn, không mặt mũi nhan sắc, trước tầm nhìn (thôi, cứ coi là tình cờ) của chàng trai mới lớn, ngồi xuống và “em chưa đái mà hồn anh đã ướt”.
Hình ảnh Nguyễn Đức Sơn giấu trong cặp ‘chiếc băng vệ sinh’ vô danh/vô thừa nhận đã ám ảnh tôi từ lúc đó. Tại sao nhà thơ lại làm như vậy, đó có phải là một hành động “nữ quyền” đi trước thời đại hay còn một mục đích nào khác?
Sống, lớn lên, và học hành ở Mỹ, từ lúc viết và xuất bản trong tiếng Anh khởi sự từ năm 1991, tôi nghiễm nhiên coi mình là một người viết Mỹ gốc Việt. Những gì tôi biết về văn chương Việt Nam trước đó cũng không nhiều. Tôi đã tưởng rằng những nhà văn, nhà thơ Việt Nam trước thời tôi là những người phần nhiều cổ kính, mẫu mực, với gu thẩm mỹ và cách sống không khác bố mẹ tôi. Tuy đã đọc văn chương Tự Lực Văn Đoàn và thơ của Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, và Lưu Trọng Lư, cung cách lãng mạn của thi văn Tiền Chiến cũng không làm thay đổi cái nhìn chung của tôi: lúc đó tôi nghĩ những nhà văn, nhà thơ của Việt Nam là những con người thơ mộng, u hoài, bị đè nén triền miên, và vì vậy tôi đi tìm sự tác động và nổi loạn trong văn học hiện đại của Hoa Kỳ và Âu Châu.
Điều mâu thuẫn (mà tôi không nhìn thấy lúc đó) là ngay trong lúc thấy mình được tự do khai phá trong giòng văn chương ngoại ngữ, tôi đã chọn cho mình một đời sống rất cung cách và bình thường. Thay vì nổi loạn, tôi đã theo học Luật, rồi ra trường và nhận việc làm trong một cơ sở thuộc ngành tài chánh của chính quyền Hoa Kỳ. Số phận di dân (con gái đầu lòng trong một gia đình có 6 người con) không cho phép tôi làm những chuyện ngông cuồng. Tôi nghĩ mình chỉ là một con người thực tế thích sự an toàn. Tôi theo nghề Luật và do đó đã chọn thái độ “nằm xuống” thay vì nổi loạn—theo nghĩa của Nguyễn Đức Sơn trong Ý Tưởng Chiều Tà–để không lâm vào cảnh “chết đói” của những sinh viên theo ngành chữ nghĩa chỉ vì không đủ khả năng học lấy bằng kỹ sư điện toán hay theo nghề thuốc. Đã từ nhiều năm, tôi vẫn hỏi mình câu hỏi không có lời giải đáp, mà về sau tôi mới biết cũng là câu hỏi của Heidegger trong Sein und Zeit (Hữu thể và Thời gian), và của Nguyễn Đức Sơn cùng những nhà văn miền Nam cùng thời với ông: “Làm sao để sống hết sức thực lòng trước những giới hạn của số phận?”
Ngoài chuyện cảm phục tác phong độc lập của một nhà thơ “quái dị,” tôi cũng muốn tìm hiểu thêm về Nguyễn Đức Sơn từ khía cạnh giới tính, vì tôi thấy ông đã đi xa hơn những nhà thơ Việt cùng thời khi diễn tả vai trò phụ nữ trong quá trình sáng tác của ông. Khi chứng kiến cảnh phụ nữ tiểu tiện, Nguyễn Đức Sơn không bị “chồn dạ” mà trái lại còn có vẻ bị mê hoặc bởi hình ảnh người con gái đẹp hành động vô tư theo bản năng:
Một Đêm Vàng
không biết trong mơ em còn mắc cở
một đêm vàng rúng động giấc thanh tân
dưới chăn chiếu thiên nhiên lồ lộ mở
em đái dầm ướt sẫm cả trần gian
(trong tập Đêm Nguyệt Động)
và, tương tự, nhà thơ sẽ hoặc đã “đến” khi chứng kiến
Vũng Nước Thánh
anh sẽ đến bất ngờ ai biết trước
miệng khô rồi nẻo cực lạc xa xôi
ôi một đêm bụi cỏ dáng thu người
em chưa đái mà hồn anh đã ướt
(trong tập Đêm Nguyệt Động)
Khi tìm hiểu về Nguyễn Đức Sơn, dần dà tôi không thấy ông xa lạ lắm với khuynh hướng nửa Tây nửa Việt, nửa nổi loạn nửa hòa đồng của chúng tôi, là những người viết sinh ra trong đầu thập niên 1960 và rời Việt Nam ở tuổi 12, 13. Lê Thị Thấm Vân, một người viết cũng xê xích cùng tuổi với tôi, đã khai phá những đề tài tương tự (nhưng vẫn còn taboo) về thân phận, thể xác và giới tính trong những truyện của chị, gần đây nhất là truyện Là Con Người trên Da Màu. Ở một khía cạnh nào đó, Nguyễn Đức Sơn đã trở thành gần gũi với những người viết hải ngoại trong thế hệ tôi vì ông đã dám “cực đoan” từ 50 năm trước. Đồng thời, Nguyễn Đức Sơn không gây sốc như những nhà thơ của thế kỷ 21 vì ông dùng những từ ngữ bóng bẩy, gần như cổ điển để gợi lên, thay vì diễn tả kiểu full frontal, những nét tục của thể xác.
Võ Phiến, cách đây gần nửa thế kỷ trước, đã cảm nhận sự tương đắc ở tâm trạng nổi loạn, cùng lúc nét sâu sắc về kỹ thuật trong thơ Nguyễn Đức Sơn. Tuy nhiên, để chứng minh rằng nhà thơ không phải là một nghệ sĩ nhếch nhác hay “vô kỷ luật,” Võ Phiến đã phải giảng giải vào năm 1966 như sau:
Viết, hay vẽ, hay đàn hát v.v.., đành là để tạo ra một hình thức đẹp, nhưng trước hết là vì muốn biểu hiện một tâm trạng, muốn thoát ra ngoài một chứa đựng gì trong lòng. Hai ý định có khi không gặp nhau. Có những hình thức đẹp mà không chứa đựng. Lại có những trường hợp mà cái chứa đựng phong phú không tìm được hình thức thích nghi. Riêng về chuyện bực dọc trước nếp sống ngày nay, có lẽ Nguyễn Đức Sơn chúng ta không phải táo tợn hơn hết đâu. Trên các tạp chí, trên những tác phẩm xuất bản năm bảy năm nay, thiếu gì quái dị được bày ra. Kẻ thưởng thức không phải ai nấy đều hẹp hòi không chấp nhận được những quái dị đó; có điều đáng tiếc là ít khi nó gặp được một hình thức biểu hiện đẹp đẽ.
Bởi vì dù để diễn tả sự phẫn nộ, cuồng loạn, cách diễn tả cũng phải vâng theo một kỷ luật, cái kỷ luật tự nó tìm ra. Không thế không thành được nghệ thuật, dù là nghệ thuật điên loạn. Vứt màu loạn xị lên khung vải là một hoạt động có thể rất bổ ích đối với nghệ sĩ nhưng rốt cuộc không đưa tới thành công nghệ thuật nào. Bước nhảy Twist có loạn tới đâu cũng không phải là thứ bước chân vô kỷ luật chen nhau chỗ chợ trời. Những hò hét, những inh ỏi của nhạc Jazz không giống tiếng đấu khẩu ngoài công lộ; nó vẫn có tiết điệu riêng của nó. Nghệ phẩm nào dù có cốt giải tỏa một ẩn ức, đồng thời cũng phải thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ [1]
Ở đầu thế kỷ 21, đối với thế hệ người viết được lớn lên và hấp thụ giáo dục và văn hóa Mỹ, những điều Võ Phiến phân tích nhằm khuyến khích sự nhân nhượng của độc giả Việt Nam khi thưởng thức nghệ thuật “nổi loạn” đã trở nên khuôn phép, bảo thủ, thậm chí ngay vào thời điểm của những năm 60 đã có phần hồ đồ, không chính xác. Thế nào là “cái kỷ luật tự nó tìm ra”? Câu “Vứt màu loạn xị lên khung vải là một hoạt động có thể rất bổ ích đối với nghệ sĩ nhưng rốt cuộc không đưa tới thành công nghệ thuật nào” ám chỉ nghệ thuật tạo hình của Jackson Pollock, một họa sĩ tiền phong của Hoa Kỳ, đã nổi tiếng trong cách vẩy tung tóe những giọt sơn trên khung vẽ từ thập niên 1950. Nghệ thuật của Jackson Pollock, trái với lời quả quyết của Võ Phiến là “không đưa tới thành công nghệ thuật nào,” đã cách mạng hóa nền hội họa Hoa Kỳ cũng như truyền thống hội họa hiện đại của quốc tế sau thời Đệ Nhị Thế Chiến.
Khi Võ Phiến nói đến “những hò hét của nhạc Jazz,” thì tôi nghĩ có lẽ ông đã chưa thật sự nghe nhạc jazz (vì tuy jazz ứng biến, tôi không thấy jazz “hò hét”), hoặc đã lầm nhạc jazz với điệu gào thống thiết của blues, hay của nhạc gospel (thánh ca) da đen. Dù sao thì jazz cũng đã được thịnh hành ở Hoa Kỳ từ thập niên 1920. Lúc Võ Phiến giải thích về sự “hỗn loạn” của loại nhạc này cho độc giả Việt vào thập niên 60 thì jazz đã được công nhận gần như là một loại nhạc truyền thống của Mỹ. Khi phủ nhận nghệ thuật/kỷ luật của “tiếng đấu khẩu ngoài công lộ,” Võ Phiến đã không thể tưởng tượng rằng loại nhạc hip hop hay những âm điệu “phố chợ” đã trở nên rất thịnh hành trong nền âm nhạc quần chúng quốc tế của ngày hôm nay. Tóm lại, khái niệm “hình thức biểu hiện đẹp đẽ” và “nhu cầu thẩm mỹ” đã được Võ Phiến coi nghiễm nhiên là một tiền đề, tuy chưa được ông định nghĩa hay phân tích thỏa đáng trong bài nhận định đầy phong thái quan lại nhưng thật ra hời hợt của ông.
Ngoài những cách biệt tạo nên bởi không gian, thời gian, và cảm nhận văn hóa, những bài viết về Nguyễn Đức Sơn thường có chiều hướng phán xét về con người “thật” của Nguyễn Đức Sơn, thay vì chú trọng vào sự nghiệp nghệ thuật của ông. Cách đây không lâu, bài Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ của Đào Hiếu làm tôi nghĩ đến cuộc đối thoại giữa Goethe và Hemingway trong tiểu thuyết Bất diệt (Nesmrtelnost) của Milan Kundera:
Hemingway: Này, Johann, họ cứ nói xấu về tôi. Thay vì đọc sách của tôi, họ lại viết sách về tôi. Họ bảo tôi không yêu mấy bà vợ của tôi. Rằng tôi lơ là bỏ bê thằng con trai tôi. Rằng tôi đấm vỡ mặt một nhà phê bình. Rằng tôi ba hoa hợm hĩnh. Rằng tôi thích liều mạng, trác táng…
Goethe: Đó là định nghĩa của sự bất diệt. Bất diệt ám chỉ phiên xử vĩnh hằng.
Hemingway: Nếu thật sự đó là phiên xử vĩnh hằng, thì phải có quan tòa công bằng chứ, ai đời lại có mụ giáo miệt vườn, cầm cái roi ve vẩy.
Goethe: Cái roi ve vẩy trong tay mụ giáo miệt vườn, đó chính là phiên xử vĩnh hằng. Ông còn muốn gì nữa, Ernest?
Hemingway: Tôi không muốn gì hết. Tôi tưởng chết rồi thì tôi sẽ được yên thân.
Goethe: Ông đã làm mọi chuyện có thể làm trong lúc còn sống để bảo đảm sự bất diệt.
Hemingway: Nhảm quá. Tôi chỉ viết sách. Thế thôi.
Goethe (cười phá): Thì đúng như vậy đó.[2]
Có lẽ điều công bằng nhất là dùng chính văn bản của Nguyễn Đức Sơn như bằng chứng cụ thể để tìm hiểu về ông.
Nguyễn Đức Sơn đề cập chuyện tôn sùng triết gia Hy Lạp Héraclite (Heraclitus) như bậc thầy, qua thơ cũng như qua truyện ngắn Ý Tưởng Chiều Tà—mà tôi coi như manifesto về khuynh hướng văn học của ông. Heraclitus đã định nghĩa sự tuần hoàn của vũ trụ như sự kết hợp của hai đối nghịch: sự biến hóa không ngừng của thiên nhiên cũng chính là tinh chất đời đời của nó. Xuân, Hạ, Thu, Đông lần lượt đến với mọi thi sĩ từ cổ chí kim, không khác gì những thịnh suy thông thường của thể xác và dục vọng. Những thèm muốn bình thường của con người cũng cưu mang cả một vũ trụ huyền bí, chính vì, hoặc cho dù chúng biểu hiện cho lẽ sống đóng khung trong thời gian. Lời thố lộ của Nguyễn Đức Sơn rất chân thật và cảm động qua phần giới thiệu cho tập thơ Đêm Nguyệt Động (An Tiêm: 1967):
Ngưỡng mộ Héraclite, Fyodor Dostoyevsky và Simone Weil. Yêu chim chóc và cỏ cây một cách lạ lùng nhưng cũng quá cần ngửi mùi quần áo lót của đàn bà và con gái, cần khẩn thiết và triền miên cho tới ngày chui xuống lỗ. Đó là một trong những chỗ chết quằn quại của tác giả. Như suốt đời cứ lạng chạng và thú vị đi từ lầm lẫn này đến lầm lẫn và hối hận khác. Một buổi chiếu trốn học lang thang trên bờ biển Nha Trang, thời niên thiếu, tác giả suýt nổi cơn điên khi trực nhận mãnh liệt cái quá ư ngắn ngủi của kiếp sống và từ đó đâm ra khật khùng cho đến nay. Tuy vậy có thể cầm dao lụi tức tốc quân xâm lược nào ở bất cứ nơi nào trên trái đất. Rất có khiếu và say mê đi câu nhưng không thể nào không rùng mình khi cắt cổ một con cá nhỏ còn sống ….
Trong thi văn của Nguyễn Đức Sơn, tôi không thấy sự hiện diện của Đấng Tối Cao, hay một hứa hẹn cho một thế giới trường cửu sau cái chết của con người. Cuộc sống con người, trong bối cảnh trần gian, kích thích bởi cái đói (có rất nhiều cảnh đói trong những truyện ngắn của Nguyễn Đức Sơn, và trong những giai thoại về ông từ những nhà văn cùng thời[3]); những xung đột giới tính, địa lý, và chính trị, trở nên mãnh liệt và đáng ghi nhớ vì chúng vây bủa cả một đời người. Tuy vậy, qua những truyện ngắn tiêu biểu như Đêm Tiệc Trần Gian, và Con Chuột Cống, cùng bài thơ Đi Thăm Bạn Sắp Đẻ ở Di Linh, Nguyễn Đức Sơn lập luận rằng con người vẫn có thể định đoạt chính số mệnh mình qua cách sống, cũng như trong cách kết thúc cuộc đời. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Đức Sơn ngưỡng mộ Simone Weil (nhà văn và triết gia Pháp khổ hạnh được đồn là đã tuyệt thực chết để tranh đấu cho tiếng nói của những nạn nhân chiến tranh).
Tôi đoán rằng nhà thơ cũng đã đọc Hữu thể và Thời gian của Martin Heidegger (một triết gia cũng đã từng thuyết trình về Heraclitus), và do đó đã áp dụng khái niệm dasein (tạm dịch là ý thức về thân phận) của Heidegger vào bối cảnh Việt Nam thời Đệ Nhất Cộng Hòa trong truyện Ý Tưởng Chiều Tà [4]:
Con gái làm sao trông thấy trái đất này đang quay và nhất là ý thức được sự tuần hoàn kỳ cục kia. Họ chỉ nhìn thấy chu kỳ những hoàng hôn êm ả ….
Anh đã trả lời giùm [sic] cho các bạn anh, những người bạn có thể chống đối nhau toàn diện trên bất cứ quan điểm chánh trị, xã hội, văn nghệ, hay đến cả đời sống hàng ngày nói chung nhưng họ gặp nhau, thân nhau và nhận thức chân lý rằng bản chất muôn đời của trí thức là phản kháng, rằng cái trách nhiệm đầu tiên và vinh dự cuối cùng của trí thức chống đối, bằng phản ứng tự động mạnh nhất và hết mình ….
Nhiều thanh niên thấy trái đất nó quay, nó quay, nó quay. Nhưng họ bị chóng mặt và không muốn nhìn nữa. Họ nằm xuống và quên đi vĩnh viễn. Đó là thân phận nhân loại.
Theo Heidegger, và được áp dụng qua văn chương của Nguyễn Đức Sơn, khái niệm hiện hữu của con người không thoát ra khỏi khuôn khổ của thời gian, mà đã được hạn định trong khoảng cách giữa sự chào đời và giờ phút cáo mệnh. Hiện hữu chính là trần gian. Nhận định của nhân vật Tâm trong Ý Tưởng Chiều Tà về chuyện “con gái không thấy trái đất nó quay” có lẽ không hẳn biểu lộ sự kỳ thị giới tính của nhân vật hay của tác giả, mà hàm chứa sự chấp nhận gần như tự nhiên của phụ nữ về số phận. Con gái không thấy trái đất nó quay vì con gái, như thiên nhiên, mang trong người những chu kỳ, do đó không thể cưỡng lại chính yếu tố giới tính của họ. Trong bài thơ Mang Mang, Nguyễn Đức Sơn đặt câu hỏi:
Tôi về lắng cả buổi chiều
Nghe chim ăn trái rụng đều như kinh
còn một mình hỏi một mình
có chăng hồn với dáng hình là hai
Như băng vệ sinh mà Nguyễn Đình Toàn đã nhắc tới, một lần nữa tôi bắt gặp hình ảnh “rụng đều như kinh[nguyệt]” trong thơ Nguyễn Đức Sơn. Có lẽ khái niệm kinh nguyệt đã phối hợp hai đối nghịch trong nhân sinh quan của ông: chuyện có kinh là một chuyển tiếp giữa thời thơ ấu và hành trình làm đàn bà của phụ nữ. Hình ảnh trứng rụng như sự lơ lửng giữa hư vô và hiện hữu: trứng rụng, nếu không được tinh trùng nhập vào, sẽ được bài trừ theo kinh nguyệt hàng tháng, còn nếu trứng được kết mầm, sẽ tạo nên sự sống. Kinh nguyệt là “của nợ,” là sự phế thải đầy máu me, và ở một khía cạnh nào đó cũng có thể biểu tượng cho cuộc nội chiến Nam-Bắc mà Nguyễn Đức Sơn đã chứng kiến trong suốt thời trai trẻ của ông. Kinh nguyệt, như chu kỳ thời tiết trong thiên nhiên, như chuyện sinh tử, là một phí phạm gần như vô nghĩa nhưng xảy ra đều đều nếu không có sự phối hợp giữa âm và dương.
Tôi suy tư nhiều về sự nhận xét của Nguyễn Đình Toàn,
Người đàn bà, người nữ, xuất hiện trong thơ Nguyễn Ðức Sơn, không mặt mũi nhan sắc, trước tầm nhìn (thôi, cứ coi là tình cờ) của chàng trai mới lớn ….
Tôi không nghĩ hình ảnh người đàn bà trong thi văn Nguyễn Đức Sơn chỉ là nhục cảm của một thanh niên mới lớn. “Nàng” cũng không hoàn toàn là một đối tượng tình cờ hay thuận tiện ở ngay trước tầm nhìn của nhà thơ, hoặc đóng vai muse/Phật Quan Âm thụ động và câm lặng như Người Đàn Bà Trên Đồi Cỏ của Đào Hiếu. Trái lại, người nữ này hiện hữu ở cùng khắp không gian của Nguyễn Đức Sơn, nàng ám ảnh ông vì nàng có vẻ quá … nhơn nhơn trong tinh chất organic của mình (được thể hiện khi nàng đi đái, hay có kinh) trong khi nhà thơ vẫn bị dằng co bởi quá nhiều xung đột trong/ngoài hữu thể của ông.
Trong Ý Tưởng Chiều Tà, nhân vật Tâm đã đề cao nét đẹp trần thế, gần như …phớt tỉnh, của phụ nữ trong thư gửi Nga, người yêu của anh:
Anh tưởng tượng khi vừa mở mắt chào đời, đứa con gái nào cũng đã bắt đầu hãnh diện ngay. Nằm trong nôi quơ tay quơ chân tầm bậy tầm bạ như đuổi bắt trống không cũng cứ hãnh diện đi, hỡi bé con lớn lên sẽ thành con gái, lớn một chút sẽ thành đàn bà và yêu tinh cùng một lúc. Hỡi con gái, hãy hãnh diện đi. Từ nhà đến trường cũng cứ hãnh diện. Xách giỏ đi chợ cũng hãnh diện. Đi ra đi vô cũng hãnh diện. Dù không bao giờ thấy trái đất này nó quay, nó quay. Hãy cứ hãnh diện, hãnh diện, như mặt đất này nó quay, nó quay.
Đoạn văn trên cũng tương tự như bốn câu thơ ca tụng “các em” của nhà thơ:
hành động
các em hãy cùng công kênh trái đất
dang chân dài lấy thế trước hư vô
anh núp rình sợ thần thánh về xô
dành tác phẩm muôn đời to lớn nhất.
Có phải qua bốn câu thơ trên Nguyễn Đức Sơn đã hưởng ứng với tâm trạng của Hồ Xuân Hương, tuy theo giai thoại là bị bùn đất làm ngã trượt nhưng vẫn giữ thái độ ngang tàng:
Dang tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài.
Nét đẹp trần thế của đàn bà, tuy nhuốm đầy tục lụy, cũng không kém phần huyễn hoặc, gợi lên những phản ứng mâu thuẫn từ ánh nhìn đàn ông. Trong Đêm Tiệc Trần Gian, lão Phụng, người ở trọ nhà ông bà Đại (một gia đình Bắc di cư nghèo sống ở khu nhà bè Thị Nghè), đã cảm nhận chân dung phức tạp của bà Đại, và của giống cái nói chung:
Có những buổi trưa nóng nực, lão Phụng đi xuống thang gác trông thấy cảnh con heo nái nằm nghiêng một bên, vú thừ ra bị một đàn heo con tranh nhau bú và khi lão quảy gánh ra đi, lúc qua phòng bà Đại, lão cũng trông thấy cảnh tượng tương tự: người đàn bà đó đang nằm ngủ, hai vú xề ra, một vú đang được thằng con nhỏ sau cùng – thằng bé Lộc – ngậm kín và vú kia cũng đang được con Liên – em bé lên bốn – ngậm kín luôn. Con Liên không biết vì quá đói ăn hay vì một chứng tật tâm sinh lý nào mà đến bốn tuổi hãy còn nương vú mẹ. Đó là chưa kể một đứa con còn nằm trong bụng nữa. Những lúc đó, lão Phụng đưa mắt nhìn thật lâu. Đôi mắt cứ đăm đăm về phía bụng và vú mụ Đại. Nếu có ai bắt gặp, thế nào người ta cũng nghi ngờ lão Phụng có ý tà dâm. Thật ra, dù đã hơn sáu mươi tuổi, lão Phụng vẫn còn thoáng thấy một tình cảm ước ao dục vọng. Những tình cảm này chỉ đến sau, hoàn toàn đến sau. Lúc nhìn bà Đại, lão đã bị thúc đẩy hay thu hút bởi một tình cảm khác, hoàn toàn khác dù không ai tin. Lão chú ý từng vệt mồ hôi nhễ nhại chảy từ tóc tai, từ thân, từ cổ xuống ướt sũng cả áo và ván gỗ chiếc đi-văng. Lão sống trong một tình cảm vừa thương hại đau khổ vừa giận dữ uất nghẹn vô biên. Hai thứ tình cảm dị loại này nhiều lúc chỉ là một. Nó có hai mặt đó thôi …. Nhìn mãi, lão thấy gớm tởm và đến một lúc nào đó, tự nhiên lão thấy tức chết được nếu còn trông thấy cảnh tượng đó. Chỉ có những lúc lão mới nhận thấy sự hy sinh cao cả cùng sự tối tăm, ngu đần của một người mẹ, một cái máy đẻ có tình cảm.
Sự cảm nhận của lão Phụng về “sự hy sinh cao cả cùng sự tối tăm, ngu đần của một người mẹ, một cái máy đẻ có tình cảm” tuy có phần khắc nghiệt, nhưng khá chính xác khi diễn tả đặc tính sinh con đẻ cái của phụ nữ. Vì sự đòi hỏi của thể xác trong một khoảnh khắc, hoặc vì không biết những phương thức ngừa thai, người đàn bà mỗi lần mang nặng đẻ đau là mỗi lần tự sát, nhưng chính cơ thể họ, cũng như tình yêu (hay bổn phận) cho chồng, cho con, đã giúp họ quên đi nỗi đau sinh nở để họ tiếp tục sinh nở, tiếp tục tự hủy mình trong mỗi thời ở cữ. Sự huyền bí đầy khiêu khích của giống cái là chuyện họ không cảm thấy trái đất quay tuy họ lại chính là yếu tố làm nó quay. Vòng sinh tử của nhân loại vì thế quay liên tục, từ thời này sang thời khác, kéo theo với nó bao nhiêu thiếu thốn, khổ đau. (Trong thời của Nguyễn Đức Sơn, người đàn bà Việt, cũng như số đông phụ nữ trên thế giới, đã không còn khí phách của Lysistrata, nữ anh hùng trong kịch của Aristophanes đã thuyết phục được các phụ nữ Athens đình công việc chăn gối với các ông chồng của họ để gây áp lực cho những người đàn ông hiếu chiến trong công cuộc đạt đến hòa bình với quốc gia láng giềng). Lão Phụng trong Đêm Tiệc Trần Gian thấu nhận được sự mất ý thức của phụ nữ về sức mạnh của họ, cho nên lão “tức chết được.”
Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, Nguyễn Đức Sơn cảm phục sự nhẫn nhục, kiên trường của người đàn bà. Sự nhẫn nhục của phụ nữ tương đương với sự khổ hạnh của một tu sĩ/chiến sĩ. Có lẽ một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Đức Sơn là bài “Trước Bệnh Viện Từ Dũ”:
Gặp Gỡ Trước Bệnh Viện Từ Dũ
Chị đi khám sản phải không
Anh đâu không thấy dáng trông lạc loài
Bao năm thai trứng nạo hoài
Năm nay đừng nhé thai ngoài tử cung
Họ nghi tàn bạo lạ lùng
Oan khiên tội lắm anh hùng bạn tôi.
Chỉ trong sáu câu thơ lục bát, Nguyễn Đức Sơn đã diễn tả hết nỗi khổ của người đàn bà bị xã hội coi là vô phúc, chỉ vì chị bị những khó khăn về y khoa trong chuyện chửa đẻ. Người đàn bà này không được sự ủng hộ về tinh thần của người chồng (vì anh vắng mặt), và cũng chẳng được hàng xóm hay họ hàng thương xót, giúp đỡ. Nhà thơ chỉ ước nguyện là người đàn bà làm tròn sứ mệnh thiên nhiên của chị “năm nay đừng nhé thai ngoài tử cung.” Sứ mệnh thiên nhiên: khả năng sinh được một hài nhi khỏe mạnh, đúng kỳ hạn, tuy được nhiều người coi là chuyện bình thường, thật ra không giản dị như vậy. Nguyễn Đức Sơn đã thấu hiểu được tính chất huyền bí và độc đoán của thiên nhiên, không khác gì những nghi hoặc “tàn bạo, lạ lùng” của người đời trước chuyện “thai trứng nạo hoài” của người nữ trong bài thơ.
Nguyễn Đức Sơn bị ám ảnh bởi chu kỳ kinh nguyệt và quá trình sinh đẻ của phụ nữ cũng vì trong thế giới của ông chưa có sự hiểu biết thỏa đáng về thiên nhiên, giới tính hay tình dục. Tuy người phụ nữ của Nguyễn Đức Sơn có khuôn mặt đa diện: nàng huyền bí, quyến rũ, thô tục, nhẫn nhục, anh hùng, can đảm, nàng vẫn chưa hẳn là “bạn tâm hồn/bạn đồng hành” của nhà thơ, không như Lưu Hà “lấy cuộc sống rỗng tênh của mình, cưu mang khối nặng sách” của chồng là Lưu Hiểu Ba.[5] Vì vậy, tôi chưa dám gọi ông là một nhà thơ feminist. Dù sao, có một điều gì đó rất thân mật và nguyên sơ trong tình cảm của nhà thơ đối với phái nữ. Trong bài thơ “Đi Thăm Bạn Sắp Đẻ ở Di Linh,” nhà thơ coi cái chết/sự tái sinh ở giữa thiên nhiên của người đàn bà-–“bạn” của ông–như một hành động phản kháng đầy tự tin, độc lập, và rất … nên thơ:
Đi thăm bạn sắp đẻ ở Di Linh

Sắp đẻ ở Di Linh cây cối chào chị
Sắp đẻ ở hư không rừng và chị ôm nhau hát
Tôi giấu mặt đi ven hồ lạnh giá
Căn nhà gỗ phần mộ thanh xuân
Những ván thông dày đặc gỗ quan tài
Của tóc của chị của tình nhân
Của dương cầm bỏ phế đúng một năm
Sắp đẻ ở Di Linh cô đơn hùng dũng
Chị thu mình như một con mèo mun
Chị thu mình như một vũ nữ Ba Lan
Chị thu mình như một dĩa hát cũ
Oh, my tormented heart
Buổi chiều chết trên cây thánh giá
Hãy quên tôi như một mũi tên
Hãy quên tôi như một loài chim đêm
Anh đưa chị về đây để tự vận
Chị thổ huyết ba lần tôi chứng kiến
Khi rừng già thấp xuống thấp xuống
Buổi sáng chị tắm sương mù
Buổi chiều chị đốt cỏ để hong đời chị
Hiu hắt như đời tôi chị đứng lên
Hai mươi bảy năm tuột mất thanh xuân
Ôi nắng vàng dòng thác Gougah
Rừng và chị ôm nhau hát
Sẽ đẻ ra một đứa con
Rừng và chị ôm nhau chết.
Như đã trình bày ở trên, Nguyễn Đức Sơn thố lộ trong phần giới thiệu Đêm Nguyệt Động là ông “suốt đời cứ lạng chạng và thú vị đi từ lầm lẫn này đến lầm lẫn và hối hận khác.” Nỗi ám ảnh của nhà thơ về khái niệm huyền bí đồng thời phàm tục của thân phận con người nói chung, và thân phận phụ nữ nói riêng (sinh đẻ, thổ huyết), làm tôi nghĩ đến bài thơ “O Saisons, O Châteaux” của Rimbaud. Trong đó, Rimbaud diễn tả hai sự lựa chọn của nhà thơ, giữa hạnh phúc của trải nghiệm (những mùa trong đời người) và nghệ thuật của ngôn từ (những lâu đài):
Ôi những mùa, ôi những lâu đài
Tâm hồn nào không lầm lẫn?
Ôi những mùa, ôi những lâu đài,
Ta học sách nhiệm mầu của
Hạnh Phúc, điều không ai bỏ lỡ.
Ôi hạnh phúc, mỗi phiên
Con gà trống Tây gáy tiếng.
Ta chẳng mong gì hơn,
hạnh phúc chiếm trọn cuộc đời ta
Bùa mê! Nó chế ngự hồn xác ta,
phân tán mọi nỗ lực ta có.
Ngôn từ ta có nghĩa gì,
Chữ nghĩa hẳn bay xa, trốn chạy.
Ôi những mùa, ôi những lâu đài
….
Ô saisons, ô châteaux,
Quelle âme est sans défauts?
Ô saisons, ô châteaux,
J’ai fait la magique étude
Du Bonheur, que nul n’élude.
Ô vive lui, chaque fois
Que chante son coq gaulois.
Mais ! je n’aurai plus d’envie,
Il s’est chargé de ma vie.
Ce Charme ! il prit âme et corps,
Et dispersa tous efforts.
Que comprendre à ma parole?
Il fait qu’elle fuie et vole!
Ô saisons, ô châteaux!
….
Đối với Nguyễn Đức Sơn, chuyện “lầm lẫn” giữa những mùa đời và những lâu đài của nghệ thuật không thành vấn đề, miễn là người nghệ sĩ hoàn toàn chân thật trong khoảnh khắc của sự lựa chọn. Sự chân thật này, như thuật chế kim, sẽ hòa giải/kết hợp những mùa đời với lâu đài. Trong khía cạnh này, Nguyễn Đức Sơn có thể được coi là một nhà thơ trong truyền thống lãng mạn, thậm chí còn có khuynh hướng luân lý. Không có gì ngạc nhiên khi Nguyễn Đức Sơn đã gay gắt chỉ trích truyện cực ngắn “A Very Short Story” của Hemingway trong phần thảo luận về quan niệm truyện ngắn của ông:
Nếu truyện dài là một cái gì hoàn tất thì truyện ngắn cũng phải là một cái gì hoàn tất dù nó có mở rộng nhiều chân trời xa xôi. Đó là điểm dễ hiểu nhưng ít người chịu hiểu …. Truyện ngắn cũng nhất thiết không phải là một truyện quá ngắn ngủi và nhất là vô duyên như kiểu “A Very Short Story” của Hemingway (….) Một truyện ngắn hay như một viên đá ném vào thạch động. Nó vang rền khắp nơi. Chúng ta tê điếng xa xăm, khác với cái tê điếng rất mạnh của nhục cảm ….[6]
Định nghĩa của Nguyễn Đức Sơn về ảnh hưởng mạnh của một truyện ngắn đặc sắc có lẽ cũng tương tự với nỗi cảm nhận thắm thiết khi ta đọc một bài thơ có ngôn từ/ý tưởng súc tích và xúc cảm. Nhà thơ phân biệt cảm giác “tê điếng xa xăm” sau khi đọc một truyện ngắn có nội dung đổi đời (chắc cũng giống như lời răn của Rilke trong bài thơ Tượng Bán Thân Cổ của Apollo, “Bạn phải thay đổi cuộc sống./Du mußt dein Leben ändern.”) với không khí cynique, chán chường nhưng ngộp thở trong truyện cực ngắn của Hemingway.
Trong “A Very Short Story” của Hemingway, một người lính Mỹ gặp Luz, một cô y tá người Ý trong bối cảnh Đệ Nhất Thế Chiến ở Âu Châu và hai người yêu nhau. Họ muốn lấy nhau nhưng vì những trở ngại của tôn giáo và tình thế chiến tranh họ đã không thể làm việc này. Sau chiến tranh, cả hai bắt đầu nghi vấn về mối tình của mình. Người lính Mỹ trở về Chicago, Luz ở lại Ý và có bầu với một thiếu tá người Ý đóng quân trong cùng thành phố cô làm việc. Cuối truyện người lính Mỹ bị lâm bệnh giang mai sau khi làm tình với một cô gái bán hàng bách hóa trong chuyến taxi đi qua công viên Lincoln Park ở Chicago. Không khí sắc lạnh, cô đọng đến tàn bạo của truyện biểu hiện sự vỡ mộng của Hemingway sau kinh nghiệm chiến tranh của ông. Đối với Hemingway, nhà văn của Thế hệ Mất Mát (The Lost Generation) khi con người đã trải qua những kinh nghiệm khủng khiếp của một cuộc chiến, thì những mùa đẹp trong đời, hay những lâu đài, cũng chỉ là ảo giác.
Tuy đã chứng kiến và trải qua cuộc chiến Việt Nam, dường như Nguyễn Đức Sơn chưa hẳn mất niềm tin về hành trình/chân lý phiêu lưu của hạnh phúc, cho dù hành trình này chỉ đưa đến sự “mất thăng bằng” cho con người, như trong bài thơ “Nhìn Con Tập Lật”:
Nhìn Con Tập Lật
Nắm tay lật úp đi con
Co thân tròn trịa như hòn đá lăn
Muốn cho đời sống không cằn
Tập cho quen mất thăng bằng từ đây
Bài thơ lục bát ngắn và thật sống động này làm tôi nghĩ đến điệp khúc trong bài hát nổi tiếng “Like a Rolling Stone” của nhạc sĩ Mỹ Bob Dylan:
How does it feel?
How does it feel,
To be without a home,
Like a complete unknown
Like a rolling stone?
(Em thấy sao?
Em thấy sao?
Sống không nhà,
Như một kẻ hoàn toàn vô danh,
Như hòn đá lăn)
xxx
Thơ của Nguyễn Đức Sơn có nhạc điệu, và những hình ảnh cô đọng nhưng hàm súc ý tưởng đã thúc đẩy tôi trong việc dịch thơ ông sang tiếng Anh. Tôi cảm nhận được “vòng quay” của Nguyễn Đức Sơn trong ba bài thơ tôi đã chọn dịch, “Nhìn Con Tập Lật,” Trước Bệnh Viện Từ Dũ,” và “Đi Thăm Bạn Sắp Đẻ ở Di Linh.” Tôi như nghe điệu nhạc cổ điển, cùng hình dáng người vũ nữ quay vòng trên hộp musical box, trong quá trình đọc và dịch thơ ông. Nguyễn Đức Sơn, trong những khai phá về sự hiện hữu của con người, về sinh, tử, âm, dương, về những khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng thấm thía trong vũ trụ, đã vượt qua những cách trở của thời đại ông, đã vượt qua biên giới ngôn ngữ và văn hóa, làm tôi thấy ông thật gần, thật gần. Đọc thơ Nguyễn Đức Sơn, có lúc tôi như thấy hai thế cực Đông/Tây của mình được phối hợp. Đó cũng là một hạnh phúc không nhỏ cho những con người trong thế hệ “bị xẻ đôi” của chúng tôi.
Xuân Tân Mão, 02-2011
Chú thích:
[1] Võ Phiến, “Nguyễn Đức Sơn,” Tạp chí Bách Khoa, số 238 (1.12.1966), in lại trong Văn Học Miền Nam: Thơ (Văn Nghệ: 1999), tr. 2975-2976.
[2] Milan Kundera, Immortality (Grove Press: 1990), tr. 81 (người viết chuyển sang Việt ngữ từ bản dịch tiếng Anh của Peter Kussi).
[3] Nguyễn Thụy Long, “Cách Sống của Nguyễn Đức Sơn” (Chương 11), trong Thuở Mơ Làm Văn Sĩ (2000); Nhã Ca, “Chân Dung Biệt Kích,” trích trong Hồi Ký Một Người Mất Ngày Tháng (Thương Yêu: 1991).
[4] Tuy “Ý Tưởng Chiều Tà” xuất hiện trong tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất của Quê Hương Ta vào năm 1973, theo lời của Nguyễn Đức Sơn ở phần giới thiệu truyện thì ông đã viết truyện này vào đầu thập niên 1960, vào thời Đệ Nhất Cộng Hòa.
[5] Lưu Hiểu Ba, Người Tù của Tham Lam (bản dịch của người viết).
[6] Nguyễn Đức Sơn, “Quan Niệm về Truyện Ngắn”, thuộc phần Giới Thiệu của truyện Ý Tưởng Chiều Tà, trong tuyển tập Những Truyện Ngắn Hay Nhất của Quê Hương Ta (nxb Sóng: 1973), tr. 277.

Thứ Ba, 15 tháng 3, 2011

GIẤY CHỨNG NHẬN LÀM...NGƯỜI

Giấy chứng nhận làm... Người- Úc Thanh - Vũ Công Hoan dịch

Trên đoàn tàu, cô soát vé hết sức xinh đẹp cứ nhìn chằm chằm vào người đàn ông lớn tuổi áng chừng đi làm thuê, hạch sách:

-Vé tàu!

Người đàn ông lớn tuổi lục khắp người từ trên xuống dưới một thôi một hồi, cuối cùng tìm thấy vé, nhưng cứ cầm trong tay không muốn chìa ra.

Cô soát vé liếc nhìn vào tay anh, cười trách móc:

- Đây là vé trẻ em.

Người đàn ông đứng tuổi đỏ bằng mặt, nhỏ nhẹ đáp:

- Vé trẻ em chẳng phải ngang giá vé người tàn tật hay sao?

Giá vé trẻ em và người tàn tật đều bằng một nửa vé, đương nhiên cô soát vé biết. Cô nhìn kỹ người đàn ông một lúc rồi hỏi:

- Anh là người tàn tật?

- Vâng, tôi là người tàn tật.

- Vậy anh cho tôi xem giấy chứng nhận tàn tật.

Người đàn ông tỏ ra căng thẳng. Anh đáp:

- Tôi... không có giấy tờ. Khi mua vé cô bán vé bảo tôi đưa giấy chứng nhận tàn tật, không biết làm thế nào, tôi đã mua vé trẻ em

Cô soát vé cười gằn:

- Không có giấy chứng nhận tàn tật, làm sao chứng minh được anh là người tàn tật?

Người đàn ông đứng tuổi im lặng, khe khẽ tháo giầy, rồi vén ống quần lên - Anh chỉ còn một nửa bàn chân.

Cô soát vé liếc nhìn, bảo:

- Tôi cần xem chừng từ, tức là quyển sổ có in mấy chữ "Giấy chứng nhận tàn tật", có đóng con dấu bằng thép của Hội người tàn tật!

Người đàn ông đứng tuổi có khuôn mặt quả dưa đắng, giải thích:

- Tôi không có hộ khẩu của địa phương, người ta không cấp sổ tàn tật cho tôi. Hơn nữa, tôi làm việc trên công trường của tư nhân. Sau khi xảy ra sự cố ông chủ bỏ chạy, tôi cũng không có tiền đến bệnh viện giám định...

Trưởng tàu nghe tin, đến hỏi tình hình.

Người đàn ông đứng tuổi một lần nữa trình bày với trưởng tàu, mình là người tàn tật, đã mua một chiếc vé có giá trị bằng vé của người tàn tật ...

Trưởng tàu cũng hỏi:

- Giấy chứng nhận tàn tật của anh đâu?

Người đàn ông đứng tuổi trả lời anh không có giấy chứng nhận tàn tật, sau đó anh cho Trưởng tàu xem nửa bàn chân của mình.

Trưởng tàu ngay đến nhìn cũng không thèm nhìn, cứ nhất quyết nói:

- Chúng tôi chỉ xem giấy chứng nhận, không xem người. Có giấy chứng nhận tàn tật chính là người tàn tật, có giấy chứng nhận tàn tật mới được hưởng chế độ ưu đãi vé người tàn tật. Anh mau mau mua vé bổ sung.

Người đứng tuổi bỗng thẫn thờ. Anh lục khắp lượt các túi trên người và hành lý, chỉ có bốn đồng, hoàn toàn không đủ mua vé bổ sung. Anh nhăn nhó và nói với trưởng tàu như khóc:

- Sau khi bàn chân tôi bị máy cán đứt một nửa, không bao giờ còn đi làm được nữa. Không có tiền, ngay đến về quê cũng không về nổi. Nửa vé này cũng do bà con đồng hương góp mỗi người một ít để mua giùm, xin ông mở lượng hải hà, giơ cao đánh khẽ, nương bàn tay cao quý, tha cho tôi.

Trưởng tàu nói kiên quyết:

- Không được.

Thừa dịp, cô soát vé nói với Trưởng tàu:

- Bắt anh ta lên đầu tàu xúc than, coi như làm lao động nghĩa vụ.

Nghĩ một lát, trưởng tàu đồng ý:

- Cũng được.

Một đồng chí lão thành ngồi đối diện với người đàn ông đứng tuổi tỏ ra chướng tai gai mắt, đứng phắt lên nhìn chằm chằm vào mắt vị trưởng tàu, hỏi:

- Anh có phải đàn ông không?

Vị trưởng tàu không hiểu, hỏi lại:

- Chuyện này có liên quan gì đến tôi có là đàn ông hay không?

- Anh hãy trả lời tôi, anh có phải đàn ông hay không?

- Đương nhiên tôi là đàn ông!

- Anh dùng cái gì để chứng minh anh là đàn ông? Anh đưa giấy chứng nhận đàn ông của mình cho mọi người xem xem?

Mọi người chung quanh cười rộ lên.

Thừ người ra một lát, vị truởng tàu nói:

- Một người đàn ông to lớn như tôi đang đứng đây, lẽ nào lại là đàn ông giả?

Đồng chí lão thành lắc lắc đầu, nói:

- Tôi cũng giống anh chị, chỉ xem chứng từ, không xem người, có giấy chứng nhận đàn ông sẽ là đàn ông, không có giấy chứng nhận đàn ông không phải đàn ông.

Vị trưởng tàu tịt ngóp, ngay một lúc không biết ứng phó ra sao.

Cô soát vé đứng ra giải vây cho Trưởng tàu. Cô nói với đồng chí lão thành:

- Tôi không phải đàn ông, có chuyện gì ông cứ nói với tôi.

Đồng chí lão thành chỉ vào mặt chị ta, nói thẳng thừng:

- Cô hoàn toàn không phải người!

Cô soát vé bỗng nổi cơn tam bành, nói the thé:

- Ông ăn nói sạch sẽ một chút. Tôi không là người thì là gì?

Đồng chí lão thành vẫn bình tĩnh, cười ranh mãnh, ông nói:

- Cô là người ư? Cô đưa giấy chứng nhận "người" của cô ra xem nào...

Mọi hành khách chung quanh lại cười ầm lên một lần nữa.

Chỉ có một người không cười.

(Vũ Công Hoan dịch, Úc Thanh (Trung Quốc))
Theo Chungta.com

Thứ Hai, 7 tháng 3, 2011

Con chó 10 năm đợi chủ nơi sân ga...

CON CHÓ 10 NĂM ĐỢI CHỦ Ở SÂN GA
(Nguồn Viettorrent)


Câu chuyện xảy ra vào năm 1925, tại nhà ga Shibuya. Hachi, nickname là Hachiko - là một chú chó nhỏ, lông màu trắng, chào đời vào tháng 11 năm 1923 ở tỉnh Akita, Nhật Bản; được giáo sư Ueno của trường đại học Tokyo nuôi.

Gia đình giáo sư không có con nên ông coi Hachiko như con ruột. Như thường lệ, buổi sáng, Hachiko tiễn giáo sưUeno Eizaburo tại nhà ga để ông lên tàu đi làm đi bộ tới nhà ga Shibuya. Vì Hachiko không được phép theo giáo sư đến Đại Học Hoàng Gia (nay là Đại Học Tokyo), nơi ông đang giảng dạy nên cứ đúng 3h chiều hàng ngày, Hachiko lại ra nhà ga đợi giáo sư.

Nhưng vào ngày 12 tháng 5 năm đó, giáo sư Ueno đã qua đời sau một cơn đột quỵ khi đang ở trường đại học và mãi mãi không thể trở về được. Còn Hachiko như mọi ngày, vẫn đến nhà ga vào lúc 3 giờ chiều để đón chủ nhân. Hôm ấy, đã qua 3 giờ chiều rất lâu, bao nhiêu chuyến tàu đã đi qua, trời đã tối mà không thấy giáo sư về. Và Hachiko, chú cho trung thành không hề nản lòng, Hachiko vẫn đứng đợi...

Hachiko linh cảm rằng có chuyện gì chẳng lành đã xảy ra, tuy vậy nó vẫn ra ga đợi chủ nhân vào lúc 3h chiều mỗi ngày. Chẳng bao lâu sau, những người xung quanh bắt đầu để ý tới sự chờ đợi vô vọng của của Hachiko đối với người chủ nhân đã qua đời của mình. Lần lượt, từ người làm vườn trước đây của giáo sư, đến giám đốc nhà ga và những người dân trong vùng đã cho Hachiko ăn và thay phiên nhau chăm sóc nó.

Câu chuyện về chú chó trung thành nhanh chóng được lan truyền khắp nơi và Hachiko được coi như một tấm gương sáng về lòng trung thành. Người ta tìm đến Shibuya chỉ để nhìn Hachiko, cho nó ăn, hoặc nhẹ nhàng xoa đầu vào đầu nó để chúc may mắn. Năm 1932, khi Hachiko đợi chủ nhân được 7 năm, 1 sinh viên của giáo sư Ueno đã viết 1 bài báo kể về chuyện cảm động này và gửi đăng ở 1 tờ báo lớn ở Tokyo. Ngay lập tức có rất nhiều người quan tâm lo lắng cho chú chó trung thành này. Cũng từ Hachiko mà người Nhật thêm vào từ điển từ mới chukhen - chú chó nhỏ trung thành.

Nhiều ngày, nhiều tháng, rồi nhiều năm trôi qua, Hachiko vẫn có mặt đều đặn ở nhà ga vào lúc 3h chiều, mặc dù nó đã bị bệnh viêm khớp và đã quá già yếu rồi. Cuối cùng vào ngày 8 tháng 3 năm 1935 (một số tài liệu nói là ngày 8 tháng 3 năm 1935), gần 11 năm kể từ ngày nó nhìn thấy chủ nhân lần cuối cùng, người ta tìm thấy Hachiko -lúc đó đã 12 tuổi -nằm gục chết tại chính cái nơi mà nó đã đứng đợi chủ nhân của mình trong suốt nhiều năm.
Cái chết của Hachiko được đăng lên trang nhất của rất nhiều tờ báo lúc bấy giờ và người đã dành hẳn một ngày để để tang Hachiko. Từ số tiền đóng góp của dân chúng trong cả nước, người ta đã thuê nhà điêu khắc Ando Teru để làm một bức tượng Hachiko bằng đồng. Khi bức tượng được hoàn thành và được đặt trang trọng ở bên trong sân ga, tại chính vị trí nó đã đứng đợi chủ nhân trong gần 10 năm.

Tuy nhiên, vài năm sau đó, Nhật Bản lâm vào chiến tranh, tất cả những thứ gì là kim loại đều bị lấy đi để làm vũ khí, không ngoại trừ bức tượng Hachiko. Sau khi chiến tranh kết thúc, vào năm 1948, con trai của Ando Teru là Takeshi đã làm một bức tượng Hachiko mới. Bức tượng đó được đặt ở ga Shibuya cho đến tận ngày hôm nay.
Nguồn viettorrent

Thứ Năm, 3 tháng 3, 2011

Đồi sim nhỏ bên thảo am- Lê Quang Kết

Ký- Nhân vật
ĐỒI SIM NHỎ BÊN THẢO AM (*)
Lê Quang Kết

Nhà văn Mạc Can bảo rằng: Ông được học chữ trên những con xuồng theo bước chân cha lưu diễn lênh đênh trên kênh rạch miệt vườn sông nước Nam bộ; còn Nguyễn Đức Vân lại khác- bập bẹ cùng mẹ đánh vần ê a bên đồi Phương Bối thuở vạt rừng này còn rất hoang sơ. Rồi thế, Vân vươn lên trưởng thành tự khẳng định mình với thơ nhạc và đồi sim hoa trái hát nghêu ngao giữa bao la đất trời. Tôi biết Vân hai mươi lăm năm nay, từng ngày tôi lại thấy ở anh -một chàng trai kỳ lạ - những ước mơ kỳ lạ - có người còn bảo lập dị hay dã tràng xe cát biển đông thế nhưng tất cả nơi anh là một tấm lòng với người với đời và một tình yêu thiên nhiên viên mãn bất tuyệt.
Đồi sim, Vân nói với tôi cách đây tròn năm năm ngày anh giã từ phố thị về với núi. Câu ca dao ám ảnh Vân “Đói lòng ăn nửa trái sim/ Uống lưng bát nước đi tìm người thương”, bài thơ thi sĩ Hữu Loan “Màu tím hoa sim” thôi thúc anh. Thế là ngày ngày dù mưa hay nắng - tít tận đèo xa, quanh co đồi dốc lên xuống ngặt nghèo -nghe có sim rừng là Vân tới đào bứng đưa về. Nhọc nhằn vất vả, rừng sim nay đã sum xuê xanh tím cả khu đồi. Có buổi chiều Vân và tôi lang thang quanh đồi sim lộng gió, anh hái trái trâm nhỏ chín mọng rồi bảo: - Mai này đồi sim sẽ là vườn ca dao, những câu thơ đẹp mộc mạc vô giá của kho tàng văn học dân gian Việt sẽ hội tụ về đây, chỗ này sẽ là thư viện mini cho độc giả thập phương, chỗ kia là tệ thất cho ai cần sự yên tĩnh -chiêm nghiệm bản thể, hai bên tả hữu sẽ là bầu bí cà mướp rau húng rau thơm…cây lá quê nhà…Mọi thứ đan xen trong một tổng thể được sắp xếp hài hòa cân đối của đá và ca dao…và ca dao…
Năm kia tôi đọc “Vú trời”- Những câu lạ lùng của chàng Vân thi sĩ “ Ai sinh hai trái bằng trăng/ Để cho đêm hội lên rằm như mơ/ Người về giữa buổi ban sơ/ Đất màu đã nhú mầm thơ sẵn rồi/ Chắc trời đẻ lửa lên môi/ Kẻo trong nhân loại thiệt thòi biết bao!”- Viết ra như thế quả là “ Thi trung hữu quỷ- Quỷ trung hữu thi”. Có người chỉ thấy thơ bằng sự tác ý phân biệt - nhị nguyên đối đãi. Không- thơ không chỉ thế, không dừng lại như thế mà là trực giác uyên nguyên, giữa cái hiểu và cái bị hiểu không có sự phân biệt. Nguyễn Đức Vân thấm được chất thiền trong thơ. Sở ngộ thơ ở chỗ: “Khi chưa tu thấy sông là sông, núi là núi. Khi tu rồi thấy sông không còn là sông, núi không còn là núi. Khi tu đã chứng ngộ thấy sông lại là sông, núi lại là núi”. Người làm thơ và công chúng phải thấy hai cảnh giới khác nhau của thơ - và thiển ý tôi, thơ Vân nhiều bài trong cả hai tập Người đẹp và Cánh hoa vừa hé (sắp in) đã nói lên được những điều như thế. Từ thơ Vân bước vào âm nhạc nhẹ nhàng, tự nhiên -anh đã phổ nhạc bài thơ “Vô lượng đất trời” của mình với giai điệu và tiết tấu mang hơi thở mạch sống dạt dào một tình yêu thiên nhiên tha thiết: “ Trên trời có đường không/ Sao nước mưa ngọt thế/ Dưới đất có lòng ai/ Sao hoa nở khắp rừng…”. Tôi nghe Vân hát say sưa như ôm cả đại ngàn vào lòng- bàng bạc gần xa trong tôi tâm thức bình yên, lắng sâu tình yêu đời yêu người…
Tuổi thơ Vân đầy ắp kỷ niệm núi rừng. Câu thơ cha thấm vào máu thịt anh: “ Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi/ Cuối chiều tà chỉ gặp bãi hoang sơ/ Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi/ Nghe nắng tràn run rẩy bóng cây khô…”( Lão thi sĩ Sơn Núi). Chật vật mưu sinh anh phải tìm về nơi phố thị đông người, thế nhưng chỉ một tuần quá lắm mười ngày là Vân tất tả chạy ào ngay về bên thảo am có đồi sim hạnh phúc. Những ngày với núi tràn trề nhựa rừng xanh, Vân trẻ trung hồn nhiên ca hát. Những ca từ và giai điệu ba đĩa hát “Đồi thông Phương Bối”,“Màu yêu thương”, “Hoa trái ngày thơ” có được - đó là những đào bới chắc chiu vun trồng của tháng ngày vỡ đất bên gốc sim chai sần đôi tay chàng nhạc sĩ. Chẳng dễ dàng và không đơn giản chút nào để có đồi sim hát? Bởi một lẽ túi Vân lúc nào cũng rỗng không. Thế nhưng chàng ta đang tràn trề giàu có, sở hữu cả ba - rừng sim rừng thơ và rừng hát. Đố ai có thể sánh bằng? Anh lạc quan thanh thản vô tư đến lạ thường. Không tiền không bạc vẫn hát vang. Một chị đứng tuổi ở gần thảo am Vân đang cư trú, giọng hớn hở tươi vui: “Nghe tiếng hát là biết thầy về”.
Nguyễn Đức Vân rất trẻ. Lớp trẻ giờ đây học giỏi thông minh và năng động- điều mà ai cũng xác tín. Nhưng nhiều nhiều bạn trẻ đang hấp thu chạy theo lối sống thực dụng, nặng tiền tài nhẹ nghĩa tình. Vân khác. Anh say mê văn chương và quý trọng nghệ thuật, ăn chay trường bởi một lẽ tự nhiên, chẳng màng chi chuyện quán xá rượu chè. Tôi yêu quý và trân trọng “cái bản chất người” ở anh. Lâu rồi Nguyễn Đức Sơn kể với tôi chuyện anh chàng Yên hồi nhỏ bức xúc cự cãi với cậu tài phụ về việc cậu ta cho chú heo vào rọ rồi quẳng mạnh lên xe, con heo kêu eng éc đau đớn chảy máu nhiều chỗ, Yên đã hét lớn tát vào mặt phụ xe:- Sao mà ông ác thế! Vân cũng thế- như em trai mình. Anh tới chơi nhà người bạn thân và chứng kiến bạn đang thịt chó- chú chó ngày nào cũng vẫy đuôi chào mừng anh. Chuyện nhiều người vẫn coi bình thường nhưng Vân đã bất giao đoạn tuyệt với người bạn kia, bởi vì: - Anh ta nhẫn tâm khủng khiếp quá! Nhiều điều thuộc phạm trù tâm linh đang đặt ra với thế giới con người hiện đại? Chuyện báo chí nêu trong năm 2010 về các loài thú tấn công người đang đặt ra quan hệ người- vật trong ứng xử với giới tự nhiên. Con người thô bạo quá, chiếm đoạt hết đất sống của muôn loài. Người trong Lão Hạc của Nam Cao đã thế, lão dằn vặt khi phải bán chú chó yêu “Trông lão cười như mếu và đôi mắt lão ầng ậc nước”, “Cái đầu lão ngoẹo về một bên và cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc…”. Chú Chó Vàng kêu ư ử như bảo với lão: “A! Lão tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này…”. “Người-Lão-Hạc” mang một cảm giác tội lỗi là nỡ tâm lừa dối một con chó. “Người ta là hoa của đất”- huấn thị của cha ông tự ngàn xưa vẫn luôn nhắn nhủ và cũng là khát khao ước vọng sống của chàng trai trẻ Nguyễn Đức Vân- Hãy Sống Xứng Đáng Là Hoa Của Đất…
Tôi thích những dòng thơ đậm tình thiên nhiên của Vân: “Cây trái rừng rưng rưng chín miết/ Một mình ta mài miệt trên đồi/ Hái trái lặng nhìn trời mây nước/ Biết lấy gì tỏ hết thương yêu”. Anh đang cho mà không nhận, nâng niu gìn giữ hoa trái quanh mình. Một chùm hoa mua hay là hoa mắc cỡ Vân không nỡ dẫm chân. Hãy trồng một cây con cho mùa sau xanh lá. Hãy sống hòa thuận trong vòng tay yêu thương của tự nhiên. Hãy khắc chế dục vọng làm giàu khi khai thác tàn phá cạn kiệt nguồn tài nguyên tưởng như vô tận mà thực ra quá bé nhỏ hữu hạn. Dòng sông bầu trời núi rừng biển cả và con người cần xanh biếc màu của cây cỏ, hoa trái, chim thú, muôn loài…
Năm rồi mùa sim chín, tôi có những ngày vui với Vân bên đồi sim. Bông sim trổ màu tím phớt không đậm như bông mua, từng chùm từng chùm nhỏ nhắn khẽ đong đưa trong gió. Đứng giữa lưng đồi đầy bông sim nhuộm nắng chiều, tôi ngỡ như đang trở về quê nhà yêu dấu. Người quê tôi yêu màu tím- tím Huế, một cung bậc buồn thương của những Chiêm nương Ô Rí tim tím lau lách thuở xa xưa, có thể khởi nguồn từ màu tím của bông sim chăng? Bông sim không mời gọi không rực rỡ, không nói chuyện bán mua, cứ bình dị đơm hoa kết trái ung dung thi gan cùng tuế nguyệt. Mỗi bận về thảo am nhàn đàm cùng anh tôi được thưởng thức mật sim do chính tay Vân hái ướp, một tạ sim mới cho ra năm bảy lít mật. Chắc chiu lắm, công phu lắm! Những giọt mật sim như chính mật ngọt anh rót cho đời “Mời em nhắm chút mật sim/ Để nghe cái nắng im lìm ngân nga/ Tâm tư là một mái nhà/ Để tôi reo khúc cuồng ca trên đồi” (Thơ Vân).
“Với một tâm vô cầu như thế, người ta sẽ thưởng thức được ý vị của thơ Nguyễn Đức Vân…”- đó là câu hàm ẩn mười năm trước nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường giới thiệu tập thơ “Người đẹp” của Nguyễn Đức Vân. Viết ra như thế hẳn văn nhân tương cầu đồng cảm với Vân biết nhường nào? Anh Tường chỉ kỳ thanh chứ chưa lần gặp chàng Vân và cũng ít phi lộ cho ai. Còn tôi đã chừng ấy năm sống gần gũi thân thiết với Vân, vậy mà tôi hờ hững vô tâm đứng ngoài cuộc. Lúc nào tôi cũng cho mình giỏi giang chữ nghĩa này kia mà có làm nên trò trống gì đâu. Nguyễn Đức Vân hồn nhiên vô tư cần chi chuyện trường lớp bằng cấp như có người xưng tụng vỗ ngực tung hê. Anh như cây xanh giữa rừng tự nhiên mọc thẳng. Cảm ơn người trai trẻ và những ước mơ đẹp. Cảm ơn những vần thơ dòng nhạc tươi xanh của chàng Vân rừng xanh. Tôi vẫn hằng mong ngày chàng Vân động thổ khai trương Vườn Ca Dao trên Đồi Sim Nhỏ Bên Thảo Am... Ngày đó điều đó tôi tin là hiện thực.
(*)Đồi sim của chàng trai Nguyễn Đức Vân hiện đang có khoảng 3000 gốc sim tại núi Đại Lào- Phương Bối, Lộc Châu -Bảo Lộc, Lâm Đồng.
Lê Quang Kết
20 Nguyễn Thái Bình, Bảo Lộc, Lâm Đồng- ĐT: 0633 717 123- 0907 615 510