Thứ Hai, 21 tháng 11, 2011

Truyện ngắn- Chuyện tình buồn

Truyện ngắn
CHUYỆN TÌNH BUỒN
Lê Quang Kết
     Họ cưới nhau trong tình yêu hạnh phúc. Vinh - trưởng phòng một công ty đầu tư nước ngoài, Lãm Thúy- họa sĩ hãng phim, căn hộ gia đình họ tọa lạc ngay trung tâm thành phố. Cha Vinh bạo bệnh mất sớm mẹ nuôi anh trong khổ cực với nghề hàng xén ở làng quê. Bà kỳ vọng và gửi gấm vào đứa con trai duy nhất hiền lành thông minh- lấy đó làm niềm hạnh phúc đời mình. May mắn đến với bà- cưới vợ cho con trai cùng lúc đất nhà nằm trong khu dự án quy hoạch công nghiệp được đền bù giải tỏa một khoản tiền khá. Tất cả của nải chắc chiu dành dụm bao năm bà đã dồn cho vợ chồng Vinh- Lãm Thúy tậu căn hộ mới ngay khu đất vàng đô thị. Bà Vò nghĩ- mình già rồi họ hàng bà con láng giềng bấy nay thôi thì đất lề quê thói chẳng phải đi đâu, xe cộ inh ỏi rồi lối sống đô thị náo nhiệt xô bồ, mình chẳng thích với lại có thân thiết quen biết ai đâu- buồn chán lắm. Thôi thì cứ ung dung tự tại nơi làng quê yên bình, đi đâu cho nhọc lòng khổ dạ.
     Sau ngày cưới tình yêu họ càng bền chặt như đôi chim ríu rít chuyền cành, tung tăng líu lo tràn trề nhựa sống. Trai tài gái sắc- nhìn họ đẹp đôi bao người mơ ước. Sau một ngày bận rộn Lãm Thúy mong sớm trở về nhà để được bên chồng- tận hưởng những giây phút ngọt ngào. Cô như cành liễu yếu mềm cần bàn tay nâng niu che chở.Vinh yêu thương vợ- cần mẫn với công việc, am hiểu chuyên môn được bạn bè đồng nghiệp tin yêu. Mối bận lòng của chàng là mẹ già mải tận quê nhà xa xôi những khi trái gió trở trời lấy ai chăm lo phụng dưỡng. Anh bàn với vợ.
- Hay là đưa mẹ vào sống cùng chúng mình em nhỉ?
- Đúng rồi, em định nói điều này với anh mấy tháng nay nhưng… Có mẹ là tuyệt vời, vui nhà vui cửa anh ha…
     Vợ chồng đồng thuận nhưng cũng phải năm lần bảy lượt thuyết phục nói gần nói xa bà Vò mới chịu vào thành phố sống. Lãm Thúy tin rằng với tình yêu chồng- cô và mẹ sẽ có tiếng nói chung. Cô đã nghe nhiều chuyện mẹ chồng nàng dâu khó lắm, mâu thuẩn khó thể dung hòa, thậm chí đổ vỡ hạnh phúc gia đình…Hồi nhỏ Lãm Thúy xem vở cải lương Thoại Khanh- Châu Tuấn, nàng dâu cắt thịt tay mình dâng lên mẹ chồng qua cơn đói lã giữa rừng sâu, Thoại Khanh còn dâng cả đôi mắt cho hung thần để mẹ chồng toàn tính mạng. Chuyện xưa…kịch tính chứ làm gì có, bây giờ khác nhẹ nhàng bình đẳng thôi- cô tin mình sẽ là cô dâu hiền được mẹ chồng thương quý.
Lâu nay mỗi khi bày tỏ yêu thương vợ, Vinh thương bế nàng và đặt nụ hôn cháy bỏng. Hôm nay chàng còn quay một vòng âu yếm rồi đặt nàng xuống chiếc ghế sopha êm ái. Lãm Thúy cảm giác hạnh phúc tràn trề nhưng có điều gì đó bâng quơ làm nàng lo sợ…
- Phòng mẹ hướng chếch đông để đón ánh nắng ban mai và hợp phong thủy với người già anh nha…
- Ôi, vợ tôi đáng yêu, em đã chọn bao giờ cũng…tối ưu không chê vào đâu được.
- Anh giỏi… nịnh lắm.
     Người già sống theo nếp quê thường giản dị tiết kiệm. Hoa trái mọi thứ quanh vườn không phải mua sắm, người nhà quê chẳng chưng hoa bao giờ và cũng chỉ ngày tết hay giỗ chạp thôi, mấy bông vạn thọ, bông trang, huệ hay bông cúc đơn giản- thế là đủ. Nàng dâu họa sĩ lại thích hoa tươi- hồng, lan rồi tulip, cẩm chướng đắt tiền, chỉ vài ba ngày cao lắm là một tuần phải thay hoa nơi phòng khách.
- Các con phung phí quá, phải biết dành dụm “tích cốc phòng cơ tích y phòng hàn” chứ. Tiền mua hoa mỗi tháng cả triệu bạc, uổng phí lắm.
- Mẹ ơi, hoa tươi là niềm vui không thiếu được đâu mẹ. Nếp sống người thành phố hiện đại là thế mẹ ơi.
     Chuyện hoa tươi mỗi lần mua về bà gia đều hỏi giá và chép miệng tiếc rẻ thở dài thườn thượt. Không chỉ hoa mà mọi thứ mua sắm mẹ đều gặng hỏi từng thứ rồi lẳng lặng vào phòng lầu bầu khó chịu. Có lần nhìn cảnh ấy, Vinh cười bảo vợ.
- Em yêu ngốc ơi là ngốc, em chỉ nói một nửa so với giá ngoài chợ thì mẹ sẽ vui biết mấy, phải không nào?
     Cuộc sống bắt đầu có điều bất an, chuyện nhỏ nhưng từng chút từng chút làm nàng dâu mẹ chồng khó chịu, bất hòa thậm chí tránh mặt nhau. Mà chỉ đâu chuyện hoa tươi, tiền điện nước mỗi tháng lên tới tiền triệu, giặt máy tốn xà phòng, quạt máy điều hòa tốn điện, ăn uống thừa mứa đem đổ thùng rác…Hồi dưới quê mọi thứ bà Vò chẳng mất một xu, có sao đâu. Điều khó chịu nhất là mỗi sáng bà chứng kiến cảnh con trai phải dậy sớm chui vào bếp nấu ăn trong khi nàng dâu nướng ngủ trên chiếc giường nệm êm ái, phải đợi chồng gọi mới chịu dậy. Dâu con gì lạ thế! Cứ mỗi buổi sáng vào bàn ăn, ba người mỗi người một cõi. Mẹ chồng mặt nặng, anh chồng lo nghĩ, nàng dâu giả câm giả điếc nhưng dè chừng, mọi thứ bỗng trở nên u ám nặng nề.
     Hồi ngoài quê bà Vò vốn hay lam hay làm, vào thành phố bà chẳng chịu yên. Việc gì bà cũng muốn tham gia. Lãm Thúy chẳng thích thú việc mẹ chồng nhúng tay vào công việc, chỉ thêm bận bịu chứ ích gì. Rửa chén bát bà chỉ dùng tay không dùng nước rửa, túi ni lông đựng đồ bà tích cóp để bán cho ve chai, đôi khi khạc nhổ chẳng vệ sinh chút nào…Tối hôm thứ bảy bực mình chuyện đạo diễn phàn nàn thiết kế mỹ thuật, về nhà trong trạng thái không vui, Lãm Thúy giải tỏa ức chế bằng việc ném tất cả túi ni lông vào thùng rác, cô rửa lại chồng chén bát mẹ vừa rửa, dọn dẹp nhà cửa chùi cọ nhà bếp…mọi chuyện cô làm như tát nước vào mặt mẹ, bà Vò nhìn hành động con dâu như muối xát tận tâm can. Hình như đã vượt tới đỉnh điểm của tức giận bà Vò bước nặng vào phòng đóng cửa sầm rồi gào to.
- Trời ơi! Nó chê tao dơ dáy, quê mùa, dốt nát… trời ơi là trời…
Vinh cuống lên, tối hôm đó anh khó ngủ nằm cứ trăn trở, bần thần; bao nhiêu muộn phiền lo âu . Lãm Thúy cố làm nũng, Vinh chẳng thèm để ý. Cô điên tiết.
- Em sai chỗ nào?
- Em đã quá quắt, nguời già lòng tự trọng cao lắm, biết không?
     Không khí gia đình căng thẳng, bà Vò chẳng bao giờ trò chuyện với nàng dâu Lãm Thúy. Chàng Vinh sống trong mệt mỏi, biết bênh ai bỏ ai. Mẹ đối với anh là suối nguồn bất tận, vợ là tình yêu gắn bó một đời, người nào cũng chiếm phần cân phân trong trái tim anh. Nỗi khổ niềm vui giữa cõi đời tục lụy, hình như chẳng có cái nào giống cái nào, niềm vui đi qua nhanh còn đau khổ ở lại muộn màng hơn thì phải. Mẹ và vợ, chữ hiếu chữ tình biết làm răng cho trọn vẹn đôi đường?
Và từ hôm đó bà Vò dậy sớm nấu bữa sáng thay cho cậu con trai yêu. Mẹ thương con là quy luật muôn đời. Đàn ông đàn ang cần chi vào bếp, con mình giỏi giang có địa vị xã hội ngang ngữa giữa đời tội tình chi phải nội trợ tề gia. Vinh đã quen với mọi thứ ăn uống mẹ lo từ nhỏ nên ngon miệng hơn mỗi bữa sáng, bà Vò nhìn con tươi vui rồi nhìn nàng dâu dò hỏi trách móc- cô thấy đấy…cô chưa tròn nhiệm vụ làm vợ… Lãm Thúy lại nghĩ bụng, chồng hùa về với mẹ ghét bỏ mình, cô lập mình.
     Ngay tối hôm ấy trước khi ngủ, lần đầu tiên Vinh tỏ thái độ to tiếng với vợ.
- Cô chê mẹ tôi nấu ăn dơ nên bỏ bữa sáng ở nhà, có đúng không? Lãm Thúy đầm đìa nước mắt ấm ức nhưng chồng vẫn lạnh nhạt quay lưng ra ngoài và còn dằn giọng.
- Cô còn… chút tình thì hãy ăn sáng ở nhà cho tôi… nhờ.
     Tâm trạng phục tùng nhưng tâm bất phục, cô mệt mỏi ê chề nhưng đành sáng sáng ngồi vào bàn cố nuốt. Và một hôm đang ngồi ăn Lãm Thúy chợt thấy buồn nôn muốn ọe ra dù cố kìm nhưng bất lực cô quăng bát đũa chạy vào toillet nôn thốc nôn tháo. Chưa kịp hoàn hồn cô đã nghe tiếng khóc đay nghiến oán trách bằng những từ ngữ cay nghiệt theo thổ âm của mẹ còn chồng thì đứng ngay trước cửa nhìn cô căm tức tới cực độ. Cô há hốc ngạc nhiên chẳng nói hay thanh minh được gì, cô chỉ nghĩ thầm mình có cố ý nôn ọe đâu…
     Vợ chồng to tiếng, cãi nhau với bao từ lạ lẫm, những cá tính được khoét sâu bằng câu chữ độc địa, mọi điều xấu trên đời đều nằm vào một trong hai-“Yêu nên tốt ghét nên xấu”là thế! Lúc đầu bà Vò còn giương mắt đứng nhìn, một lát sau khi nghe tiếng mạt sát nặng nề bà thất thểu bỏ ra ngoài. Vinh tức tối nhìn vợ rồi lao nhanh theo mẹ…Gần cả tuần chẳng thấy hơi tăm, bặt vô âm tín- cô điện thoại nhưng rơi vào im lặng không tiếng trả lời. Nàng dâu rối bời, mẹ chồng lên đây mình chịu bao điều oan ức, biết làm sao đây, vậy mà anh ta còn lên mặt muốn thế nào nữa đây…
     Buổi sáng gặp chị Tuyết Hoa và cô văn thư ở cổng hãng phim, chị cùng cô bé nhìn cô chăm chú rồi nhoẻn miệng cười.
- Coi bộ cô họa sĩ ốm nghén, đi phụ sản kiểm tra thử coi?
- Đúng thế chị ơi, nhìn chị Lãm Thúy khác lắm…
     Hóa ra là thế, tại sao sáng hôm ấy mình buồn nôn khó ở? Kiểm tra ở bệnh viện cho kết quả Lãm Thúy đã có bầu. Niềm vui được làm mẹ- thiên chức cao đẹp của người phụ nữ pha trộn chút buồn hờn trách- tại sao chồng và mẹ lại không nghĩ tới chuyện này nhỉ? Tình cờ hay hữu ý, vừa ra tới cổng khoa phụ sản cô thấy chồng đang loay hoay gởi xe. Mới tuần sao trông Vinh tiều tụy thế -nhìn bộ dạng chồng khiến cô xót xa. Cô gọi anh nhưng đáp lại là cái nhìn dửng dưng xa lạ, ánh mắt anh hàm chứa nỗi oán ghét như mũi kim nhói buốt đâm vào tim cô. Ngồi trên taxi cô muốn khóc nấc lên “Anh yêu, em sắp sinh cho anh một cục cưng đây!”. Và cô tưởng tượng trong niềm hạnh phúc được anh bế lên quay một vòng với nụ hôn nồng cháy hơn hẳn bao lần trước đó…
     Về nhà cô nằm vùi trên giường với bao tự vấn. Cô khóc. Chỉ thế mà tình yêu kết thúc rồi sao? Chỉ vì mẹ và chỉ một lần lầm lỗi mà chúng con mất nhau ư? Vĩnh biệt tình anh? Tình yêu dễ dàng vuột mất thế hở anh? Những kỷ niệm trở về trong thổn thức, những lần giận hờn bao giờ Vinh cũng tìm cách giảng hòa trước, lần này tồi tệ thế sao anh? Bần thần tới khuya, có tiếng chìa khóa mở tủ Lãm Thúy bật dậy thấy chồng đầy nước mắt đang loay hoay. À, anh ta đang cần tiền phải về nhà lấy, thế thôi. Cô lạnh nhạt nhìn chồng với ánh mắt vô cảm. Vinh cũng làm như không nhìn thấy vợ, anh vội vã hờ hững bỏ đi.
     Vinh đi rồi, Lãm Thúy lại khóc. Tình và tiền anh ta tách bạch rạch ròi đến thế ư? Thôi hết tình ta. Dù thế nào cũng phải ba mặt một lời, một tiếng cho xong để rồi đường ai nấy đi. Vừa đầu giờ sáng cô đã gõ cửa công ty, chàng vệ sĩ trẻ ngạc nhiên.
- Thưa chị, tôi được biết cách đây một tuần mẹ của trưởng phòng bị tai nạn nghiêm trọng nằm bệnh viện, trưởng phòng đã xin nghỉ để chăm sóc mẹ cơ mà. Chị vừa đi xa về có phải không?
- Cám ơn cậu.
     Lòng cô rối bời, mẹ tai nạn mà mình vô tâm thật. Lãm Thúy đến ngay bệnh viện nhưng khi gặp mặt chồng mẹ đã nhắm mắt ra đi. Nước mắt cô rơi lả chả, đến nông nổi này sao, trời ơi… Nhìn khuôn mặt tái tím vàng vọt của mẹ cô như mất hồn, dù thế nào cô cũng có phần lỗi trong tai họa tày trời này…Người ở bệnh viện kể chuyện: Bà Vò trên đường ra bến xe về quê khi băng qua đường đã bị chiếc xe tải đâm mạnh chấn thương sọ não, bác sĩ tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi…
Vinh lặng lẽ lo chuyện an táng mẹ rồi anh ở hẳn cả tháng ngoài quê. Nỗi đau lớn làm anh ngã quỵ. Người anh sút hẳn, từ chàng trai khỏe mạnh hoạt bát anh suy sụp tới mức tệ hại khiến ai nhìn cũng ái ngại. Bạn bè khuyên giải, phân tích nhưng Vinh chẳng thiết gì. Anh dọn vào phòng mẹ, ngày nào cũng thế tới khuya mới về nhà người sặc mùi rượu. Lãm Thúy lo lắng, khổ tâm dằn vặt- bao thứ đè nặng lên cô, chuyện mẹ mất có phần lỗi ở cô nhưng không là tất cả, chẳng ai muốn thế. Cô mất mẹ ruột từ nhỏ và cô cũng hiểu chữ hiếu thuận thương quý mẹ chồng. Nếu hôm ấy mình không nôn tháo, nếu hôm ấy mình không to tiếng với chồng, nếu mình thấu hiểu một tý, nếu mình biết đặt mình vào người mẹ…Bao chữ nếu đặt ra…Tai họa giáng xuống gia đình đôi vợ chồng như lấy đi mọi thứ, họ gần bên nhau mà xa cách nghìn trùng.
     Một hôm trên đường về nhà ngang qua tiệm ăn hai người thường ăn trưa ngày mẹ còn sống ngoài quê. Lãm Thúy bất ngờ thấy chồng đang ngồi tươi cười trò chuyện với cô gái trẻ, anh tỏ vẻ ân cần vuốt nhẹ mái tóc cô ta. Cô tưởng mình nhầm nhưng không…vẫn thế họ đang âu yếm nhau như Vinh và cô ngày xưa hạnh phúc.Thế đấy, cô đã hiểu- bước vào tiệm trân trân nhìn Vinh, đôi mắt Lãm Thúy ráo hoảnh. Cô không cần nói và nói để làm gì nữa…Cô tình địch nhìn Lãm Thúy nhìn Vinh định đứng dậy, anh ấn cô ta ngồi xuống rồi nhìn vợ “- Ừ tôi thế đấy, cô muốn gì?”. Lãm Thúy thất thần, người cô và cả đứa bé trong bụng cô như ngã quỵ, kẻ thua cuộc là tôi…là tôi…
     Nhân chứng vật chứng đã rõ mồn một, đêm ấy Vinh không về. Anh muốn minh xác một hiển ngôn- cùng với sự qua đời của mẹ, tình yêu giữa chúng tôi chấm hết, đừng bận tâm làm gì chỉ đau khổ đến tận cùng mà thôi…
     Giờ Lãm Thúy sống chỉ một mình, cô đi khám thai một mình, trái tim cô vỡ vụn khi nhìn các bà vợ bụng bầu được chồng dìu đến phòng khám. Bạn bè khuyên nhủ, có người còn bóng gió gần xa khuyên cô bỏ cái thai đi cho yên chuyện, em còn trẻ đẹp có khối chàng theo lo gì…Cho đến cái hôm, cô về nhà đã thấy anh ngồi chờ bên chai rượu dở dang trên bàn còn tờ giấy một bên đã có chữ ký của Vinh. Khỏi xem cô đã biết điều gì trong tờ giấy kia. Cô bình tỉnh đến lạ thường.
- Đợi một tý tôi sẽ ký ngay đây.
- Em có bầu rồi đấy à?
- Vâng nhưng không sao cả…anh có thể đi được rồi…
     Quá khứ là quá khứ không thể trở lại nữa rồi, chúng tôi đã rạch vào tim một vết thương sâu hoắm không hàn gắn nổi. Trái tim Lãm Thúy chỉ ấm lên khi nghĩ đến đứa con trong bụng còn với chồng tim cô lạnh như băng. Anh vẫn ngủ ở phòng mẹ, nhiều đêm trở giấc cô nghe tiếng rên rỉ, âm thanh nghe như cố chịu đựng kìm nén nhưng chắc là đau đớn tột cùng. Anh ta định dở trò gì đây? Tờ giấy ly hôn đã ký nhưng chẳng thấy Vinh đá động gì chuyện ngày ra tòa?
     Một đêm gió mùa Đông Bắc se lạnh, cơn đau bụng dữ dội khiến Lãm Thúy thét to. Hình như anh đang chờ đợi phút giây này, Vinh bồng vợ chạy vội xuống cầu thang, chặn taxi và ôm chầm cô vào xe. Anh trìu mến nắm chặt tay vợ như sẻ chia cơn đau, cầm khăn lau nhẹ lên trán cô nóng hổi. Tới cổng Vinh lại cõng vợ chạy nhanh lên khoa sản. Cố nén cơn đau, cô thầm hỏi- Sao lưng anh ấy lạnh ngắt thế kia? Sao anh không còn khỏe như ngày trước? Có điều gì với anh mà mình chưa rõ? Đôi vai anh sao gầy guộc? Một ý nghĩ chợt đến trong cô- Liệu trên đời này có ai yêu thương mình như anh ấy không nhỉ?
     Vinh vịn cánh cửa đưa ánh mắt ấm áp nhìn vợ khi được chuyển vào phòng sinh bên trong. Một ngày cũng nghĩa vợ chồng, Lãm Thúy cố nhịn đau mỉm cười- nụ cười bao dung hỉ xả…Chỉ hơn một tiếng sau Lãm Thúy sinh một cậu bé kháu khỉnh, mọi người chúc mừng còn anh nhẹ nhàng nhìn chăm chăm cô và con mà rưng rưng nước mắt…
     Mẹ tròn con vuông, Lãm Thúy và cháu bé về nhà trong niềm hân hoan của bạn bè bà con quen biết. Vừa đặt mẹ con cô vào chiếc giường ấm cúng quen thuộc, cô ngước mắt nhìn anh nhưng… Người anh mềm nhũn kiệt sức mệt mỏi ngã quỵ xuống sàn nhà…Sao chuyện gì thế anh? Tờ giấy chẩn đoán bệnh trong túi anh…Kết luận và kết quả xét nghiệm đã xác định: Bác sĩ cho biết Vinh đã bị ung thư xương giai đoạn cuối, phần phụ chú còn ghi: Sự chịu đựng của bệnh nhân Vinh quả là kỳ lạ hiếm có… Trời ơi, tai họa và đau đớn ghê gớm ập xuống chồng cô mà cô không hề hay biết; cô còn nghi ngờ buộc tội, cô còn xa lánh đóng kịch, cô còn lên án chồng xấu xa ngoại tình và bao điều tệ hại độc ác nhất…Cô khóc nức nở…
- Chồng tôi… anh ơi… Vinh ơi… hãy tha thứ cho em. Lỗi lầm tất cả thuộc về em. Em là người vợ xấu xí nhất…người vợ cạn tình bất nhân nhất trên đời…anh ơi…
- Làm gì để cứu mạng sống chồng tôi…hỡi trời…
     Nỗi đau xé ruột xé gan với Lãm Thúy, tiếng rên mỗi đêm cô nghe là thật. Anh đã biết mọi thứ và chuẩn bị cho chuyến đi xa. Giờ anh nằm đó, thoi thóp, đau đớn, chịu đựng, từng đốt xương toàn thân đang mỏi mòn phân hủy, di căn đã chạy tới phần tủy…anh yêu…
Dù còn tháng ở cử nhưng cô không thể ngồi yên trong nhà, cô ẳm con trai tới bệnh viện. Lòng nhủ thầm- Tới một lần với cha con ạ, cha sẽ không còn ở lâu với mẹ con mình nữa đâu, cha đau nhức tận xương tủy con ơi…Vào tới giường anh nằm, anh vẫn hôn mê do cắt cơn giảm đau. Lãm Thúy bồng con đặt cạnh bên anh rồi gọi khẽ.
- Con đang hỏi anh- cha đau chỗ nào? Con đang chuyền hơi ấm của cả em và con sưởi cho anh đây…
     Vinh như ngọn đèn sắp tắt vụt sáng, anh mở mắt khó nhọc nhìn vợ và đứa con yêu chưa kịp đặt tên. Thằng bé như hiểu được tình cha, rúc vào lòng cha, từng ngón tay nhỏ xíu hồng hồng ngọ nguậy mân mê trên gương mặt cha…Cô ràn rụa…khóc òa…Khổ thân chồng tôi…Khổ lụy tình tôi…

Lê Quang Kết
20 Nguyễn Thái Bình, Tp Bảo Lộc- Lâm Đồng
ĐT: 0633 717 123- 0907 615 510
Email: lequang54@gmail.com

Thứ Bảy, 19 tháng 11, 2011

DẤU CHÂN THÀNH NỘI

Bút Ký
DẤU CHÂN THÀNH NỘI
Lê Quang Kết
Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ- dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành Nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành Nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành Nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…”( Nguyễn Phước Huỳnh Đệ). Thành Nội với Huế với tôi đã thành danh từ riêng trong miên man nhớ. Nơi đó lũ chúng tôi đã có những kỷ niệm ngày xanh đằm thắm, hoang nghịch và hồn nhiên tuổi học trò…
Làng quê chiến tranh tan tác, tôi lên Huế học trường Hàm Nghi- vốn là Quốc tử giám của Triều đình nhà Nguyễn.Vào cửa Thượng Tứ phía trái mấy bước chân là gặp ngay trường tôi nằm khiêm tốn xen giữa hàng nhãn lâu năm trên đường Đinh Bộ Lĩnh và hàng phượng phía bên kia đường Đoàn Thị Điểm. Ấn tượng đến trường với tôi là mỗi bận đi qua Cửa Ngăn- hai bên Quãng trường Ngọ Môn dưới chân Kỳ đài sừng sững “Cửu vị thần công”. Chín khẩu đại bác cổ, bên phải 5 khẩu bên trái 4 khẩu- bà ngoại tôi thường dặn với theo- cháu đi qua nơi đó nhớ đừng quên ngả nón cúi đầu. Nhiều huyền thoại được người xưa truyền tụng: Súng thần linh thiêng lắm, có cậu bé hiếu kỳ leo lên họng súng nhìn vào bên trong bị nuốt chửng chẳng thấy hơi tăm. Người đau ốm do vương vào cửu vị phải mời thầy cúng gọi ba hồn bảy vía hay chín vía lạy tạ thần công mới mong qua khỏi. Chuyện cung đình nhà Nguyễn kể rằng: Vua Tự Đức dự định đưa Cửu vị thần công xung trận- quân lính dùng xe song mã kéo nhưng thần công án binh bất động- không hề nhúc nhích. Nhà vua phải cử quan Ngự sử dự khán và xuống chiếu: Nếu ngài bất tuân thì sẽ phạt đánh 50 trượng và giáng chức. Tuyên chiếu xong, ngựa kéo thần công bỗng nhiên ung dung nhẹ nhàng cất bước.
Dấu chân Thành Nội- tôi lẫm nhẫm, mới đó đã gần 40 năm xa trường xa bạn bè ngày tháng cũ. Thế hệ chúng tôi thuở ấy đến trường trong bề bộn lo toan- chiến cuộc biến động từ làng lên phố, mỗi bận hè qua lớp học thưa vắng, bạn bè vơi dần- đứa bị đôn quân, đứa đành nghỉ học, đứa xa rời Huế vật lộn mưu sinh, và bao đứa khác bám trụ cố giữ chút yên bình… Năm rồi điện thoại từ Huế Lê Quang Tùng, Đặng Thọ, Hoàng Đình Huề, Trần Quang Hải, Trần Đạo Dõng hẹn hò: -Hồi xưa tụi mình đã có “Ra Khơi”, “Lướt Sóng” giờ cố lên để chuẩn bị cho chuyến “Về Nguồn”- giọng Đặng Thọ vẫn nhiệt thành như ngày nào, những hôm năm xưa chật vật, xoay xở bài vở để “Lướt Sóng”- đặc san cuối bậc học phổ thông của năm12B1 Hàm Nghi ra đời…Ước gì, cuốn lưu bút ngày xưa đó- có bạn cũ nào còn lưu giữ cho đến bây giờ?
Tôi nhớ…Năm học đệ tam B2 (lớp 10 bây giờ), cô Nguyễn Thị Tuyết dạy Việt văn đã bắt cả lớp quỳ lên bàn. Hàng phượng ngoài đường thấp thoáng có nhóm nữ sinh Thành Nội tan học sớm, họ nhìn chỉ trỏ rồi ồ lên cười khúc khích, có người còn đồng dao: Lêu lêu trò A bị quỳ/ Không thuộc bài là xấu nghe chưa…Là xấu nghe chưa… Nhóm chúng tôi cửa sổ nhìn ra ai nấy ngượng chín cả người. Cô Tuyết có còn nhớ không? Con vẫn nhớ như in bài ca dao năm cũ cô giảng: “Trăm năm dầu lỗi hẹn hò/ Cây đa bến cũ con đò khác đưa”- cô đã mở bài và mở ra điều thú vị rằng: Bến cũ là từ chung còn người Huế phải là “bến cộ” mới phải và nếu được phép phóng tác thêm câu ca dao- lời tiếp sẽ là: “Cây đa bến cộ còn lưa/ Con đò đã thác năm xưa tê rồi”. Bao năm xa Huế xa trường con vẫn nhớ lời cô- những chữ ‘cộ”, chữ “lưa”, chữ “mô” “tê” “răng rứa” ngày ấy…và bao điều khác nữa để mang đi suốt một đời…
Thành Nội- những ngày nghỉ học đạp xe lang thang, hàng trăm con đường nhỏ, từng đoạn từng đoạn ngắn quẹo phải rồi rẽ trái và bất chợt gặp người quen có khi chẳng hề biết tuổi tên. Những tên đường tên phố đã thành quen thuộc hiện về trong ký ức: Ông Ích Khiêm, Hàn Thuyên, Nguyễn Biểu, Lê Thánh Tôn, Tống Duy Tân, Tịnh Tâm, Thượng Thành, Ngã Tư Anh Danh, Cầu Kho, Chợ Xép, Tây Lộc,…Thầy Võ Văn Dật (Võ Hương An) dưới mái trường Hàm Nghi- người thầy mà chúng tôi một mực kính yêu và ngưỡng mộ đã công phu uyên áo viết “Đường Xưa Thành Nội”- trong tập “Huế Của Một Thời”. Thầy ơi! Con đã đọc Huế…của thầy như bài sử ngày xưa thầy giảng, như được trở về với Thành Nội và trường xưa yêu dấu, như được sống lại trong vòng tay thân ái của bạn bè và hiểu thêm bao nỗi lòng của những đứa con Huế xa…
Hàm Nghi trường tôi nhỏ nhắn và khiêm tốn so với Quốc Học hay Đồng Khánh. Vậy mà chúng tôi mỗi đứa lại có niềm kiêu hãnh riêng về trường mình. Hàm Nghi ông vua triều Nguyễn yêu nước, từ bỏ cung son cởi áo bào cùng dân đánh giặc- ban hịch Cần Vương hiệu triệu sĩ phu giúp vua chống Pháp- đã sống mãi trong lòng dân nước. - Vậy nếu công cuộc kháng chiến đòi hỏi đi vào sống trong rừng sâu, Ngài có đi không? - Tôn Thất Thuyết hỏi. - Đi đâu cũng đi, sống thế nào cũng được, miễn là đuổi cho giặc Pháp ra khỏi đất nước - nhà vua đã trả lời giọng trầm, chậm rãi nhưng kiên quyết. Câu trả lời của ông vua vừa tròn 14 tuổi quả là ý chí và bản lĩnh- nặng lòng với sơn hà xã tắc.
Mười giờ đêm 26 tháng 9 năm 1888, Trương Quang Ngọc và Nguyễn Đình Tình đem hơn 20 lính Mường vào bao vây lều tranh của vua Hàm Nghi trên bờ khe Tả Bảo (Tuyên Hóa- Quảng Bình). Nghe bên ngoài có tiếng động, quan Thống chế Nguyễn Thúy và con trai ông chạy ra, bị tên Ngọc đâm chết tại chỗ. Tôn Thất Thiệp, con út Tôn Thất Thuyết còn đang ngủ, hoảng hốt cầm gươm nhảy ra cũng bị một tên lính Mường phóng ngọn giáo vào ngực chết ngay. Biết mình bị phản, vua Hàm Nghi bước ra, ung dung cầm thanh gươm đưa cho Trương Quang Ngọc và bảo rằng: “Mày giết tao đi còn hơn đưa tao về nộp cho Tây”. Vua vừa nói dứt lời thì một tên lính Mường lẻn ra sau lưng ôm quàng lấy Người rồi giật thanh gươm ra. Từ đó, nhà vua tịnh khẩu - không nói nửa lời…
Chuyện rằng: Trong suốt thời gian lưu đày- sang Alger thủ đô nước Algerie thuộc địa của Pháp bên bờ Địa Trung Hải, nhà vua luôn hướng về cố quốc. Theo công chúa Như Mai (nay đã mất), khi vua Bảo Đại qua Alger thăm có mang cho ông một số tiền, nhưng vua Hàm Nghi không nhận và khuyên Bảo Đại nên đem tiền về lo cho dân nghèo. Trong những năm tháng buồn bã của cuộc đời lưu đày, ông tìm niềm vui trong âm nhạc và hội họa, luôn mặc quốc phục áo dài khăn đóng với đầu tóc búi tó củ hành đặc trưng truyền thống Việt Nam...
Chúng tôi tự hào ngôi trường yêu dấu của một thời áo trắng Huế mang tên ông vua yêu nước Hàm Nghi. Và ngày xưa ấy, đặc san “Ra khơi” của thầy trò chúng tôi đã có truyện ngắn tuyệt vời “Lửa Trường Sơn” của Nguyễn Văn Thêm 12B1 (đệ nhất)- nhân vật chính là ông vua yêu nước trẻ và tên phản tặc xảo quyệt Trương Quang Ngọc- dù chỉ khiêm tốn dòng chữ trang giấy nhưng riêng tôi đã tiếp nhận trong thổn thức và … tâm phục coi đó là hiện tuợng “Văn sử bất phân”. Thêm giờ đang làm gì ở đâu? Tới bến bờ nào của văn chương? Có nhớ về năm tháng Hàm Nghi và bài văn trong “Ra khơi” dấu chân kỷ niệm?
Mấy hôm trước Hồ Xuân Bích, Nguyễn Trọng Minh, Huỳnh Hữu Khánh điện thoại và nhắn tin khẩn: Họp mặt thất 2, 1964-1971 vào tháng 11- cố về. Bao nhiêu năm xa cách vậy mà Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn hay tận nơi xứ người xa xăm…đi đâu làm gì cũng đau đáu về thầy cô trường lớp bạn bè Hàm Nghi một thuở- điều mà chính tôi người trong cuộc không lý giải nổi? Ái hữu Hàm Nghi đã ra mắt cuốn Đặc san thứ 8 về trường xưa kỷ niệm. Giữa bao chồng chất bề bộn- nỗi riêng niềm chung- trang sách Hàm Nghi mở ra ký ức tuổi thơ ùa về- những lúc như thế tôi như nghe lòng bình yên, thanh thản- nhẹ gánh lo toan, được trở về tìm lại góc nhỏ ngày xưa vô tư vụng dại của tuổi học trò…
Dấu chân Thành Nội những ngày Huế mưa, chao ôi là buồn. Thi nhân kim cổ đề thi ngàn vạn trang mưa Huế vẫn còn đâu đó- chưa thể treo lên lầu cao. Mùa mưa dai dẳng lê thê trên đất Huế. Mưa thúi đất thúi đai, trắng trời trắng đất, mưa cả tháng không thấy ánh mặt trời. Mưa từ tháng 7, 8 cho tới giêng hai. Hoàng thành xưa nhuộm thêm màu cổ kính. Màu ngói rêu phong phủ dày trên những ngôi nhà cổ. Từng con đường, góc phố vội vã bước chân qua, Thành Nội trầm mặc lặng lẽ giữa các cô cậu học trò lầm lũi trong mưa...
Tuổi cắp sách ai mà không thích những ngày nghỉ học trời… cho. Lụt. Khắp mọi ngả đường vàng đất một màu nước, bầu trời gần hơn- một màu xám âm u lạnh lẽo…Tầm tả mưa, mưa như trút- chuyện nơi xứ này trời hành cơn lụt mỗi năm…như quà tặng của đất trời. Đò Thừa Phủ không đưa, nước tràn Đập Đá lội qua không được; Bao Vinh, Kim Long, Chợ Cống, Đông Ba, Gia Hội…mênh mang một màu sông nước- nước từ thượng nguồn Trường Sơn đổ về ầm ào như thác đổ, sông Hương cuồn cuộn sóng cuốn phăng về cửa biển Thuận An. Lũ chúng tôi xăn quần túm áo lội lụt, vô tới hồ Tịnh Tâm coi rớ cá. Chạy đuổi nhau trợt ngã, về nhà đứa nào đứa nấy ướt như chuột lột.
Lớn lên thêm chút biết mẹ lo âu, lụt chắc năm ni- mùa màng ngoài quê thất bát, bà con mình thiếu gạo ngày đông lạnh, tết này biết lấy chi mà lo tết…Những năm lụt to, nhìn bà con bồn chồn ra vô đứng ngồi trông ngóng- người thân đi mô đó chưa kịp về, thẩn thờ biết răng chừ- chuyện lành ít dữ nhiều. Gia đình chị nớ mất người trôi luôn cả cửa nhà rồi đây lấy chi mà sống…Quê hương em nghèo lắm ai ơi/ Mùa đông thiếu áo hè thời thiếu ăn… Thương Huế chi lạ …
Người tôi yêu nhà phía bên kia hữu ngạn sông Hương. Chúng tôi quen nhau hồi miền núi A Lưới. Những ngày đằm thắm bên nhau chóng qua, chúng tôi mất nhau ngày tôi khăn gói vào Sài Gòn tiếp tục việc học dở dang. Tiếc nuối phỏng có ích gì, duyên phận không thành thôi đành ngậm ngùi buông lơi…Những lần về Huế chẳng hiểu vì sao chúng tôi ít có dịp gặp nhau. Chàng nhạc sĩ tài hoa đất Huế TCS. đã viết ca từ và giai điệu “Này em có nhớ” trong tuyệt vọng những ngày xa và nhớ “Chúa đã bỏ loài người/ Phật đã bỏ loài người/ Này em xin cứ phụ người/ Này em xin cứ phụ tôi/ Đời sống quanh đây có vạn lời mời/ Đời sống quanh đây tiếng người mừng gọi em vào/ Đời đã quen với những kiếp xa nhau…”. Chúng tôi duyên phận không thành- thôi thì…cầm bằng như thể mưa sa lưng đồi…MH giờ đang với Huế cũng chẳng …êm ái gì, phải chi…em đừng…
Tôi đã bỏ Huế bỏ Thành Nội mà đi, chừng ấy năm loay hoay bạc tóc chẳng làm nên công cán gì. Cảnh cũ người xưa đà khác, thầy tôi bảo: “Sự đổi thay không đến từ thiên nhiên; tất cả đều do con người, là những lớp sóng phế hưng của thời đại tác động qua năm tháng. Trong dòng đổi thay đó cũng thấy mình trong ấy, thấp thoáng bóng buồn vui…Cũng may còn cái tên Thành Nội để nhớ”. Cũng may giờ đã có ngôi trường Hàm Nghi mới để mỗi chúng tôi có dịp quay về- tìm kiếm bước chân ngày tháng cũ.
Trường tôi…Hàm Nghi. Ngày ấy rời trường tôi vào sư phạm. Gần 35 năm trên bục giảng tôi đã đi đến nhiều vùng đất nước, dừng chân nhiều loại hình trường lớp, có bao mối quan hệ nghĩa thầy trò, dạy và học, tình bạn bè- thế mà trong tôi trường xưa Hàm Nghi- dấu chân Thành Nội vẫn luôn là nỗi nhớ khôn nguôi- hành trang yêu thương mang theo và để thôi thúc bước chân về…
Lê Quang Kết, 20 Nguyễn Thái Bình, Tp. Bảo Lộc- ĐT: 0633 717 123 - 0907 615 510
Email: lequang54@gmail.com

Thứ Ba, 4 tháng 10, 2011

Từ Đàm- Mái chùa một thuở dấu yêu

Tùy bút
TỪ ĐÀM- MÁI CHÙA MỘT THUỞ DẤU YÊU
Lê Quang Kết
Từ Đàm là nơi tôi quy y học Phật năm tròn 6 tuổi. Bổn sư là cố Hòa Thượng Thiện Siêu, tôi nhớ và in sâu trong tâm bài pháp buổi đầu tiên dưới mái chùa “Con dao trong tâm”- mà lời thầy ngày xưa như còn vang vọng: “…Không, tôi không có nói ông quăng con dao bén trong tay ông, tôi muốn ông quăng con dao bén trong tâm ông kia mà”. Ôi, Từ Đàm ôi Huế! Tôi đã bỏ chùa xa quê mấy chục năm trời, đem thân nơi chốn bụi trần mà lòng chẳng an. Mỗi bận chiều về, lòng quay quắt nỗi nhớ chùa xa…
Lòng đang ngổn ngang trăm mối- rối như tơ vò bỗng yên bình nhẹ gánh khi nghe giai điệu và ca từ.
“Quê hương tôi miền Trung, sớm hôm chuông chùa nhẹ rung tiếng muôn đời Tổ tiên kiêu hùng. Ôi uy nghiêm bóng chùa Từ Đàm, nơi yêu thương phát nguồn Đạo vàng, qua bao dông tố chùa Từ Đàm tôi vẫn còn.
Quê hương tôi là đây, sớm hôm hương trầm nhẹ bay, vấn vương lời kinh chiều nay vơi đầy. Ôi anh linh bóng chùa Từ Đàm, nơi Bắc Nam nối liền một nhà, tay trong tay quyết vì loài người còn lầm than…”.
Nhạc sĩ Văn Giảng -thầy tôi sáng tác bài hát này- tựa đề chỉ “Từ Đàm quê hương tôi”, không có chữ Chùa đằng trước, sau này hình như người ta thêm thì phải. Bởi một lẽ giản đơn Từ Đàm đã là Mây Hiền và trong đó ẩn chứa khái niệm Mái Chùa lành- thì cần chi phải nói thừa ra không cần thiết. Điều vô tâm mãi sau tôi mới tỏ- thầy Văn Giảng dưới mái trường Hàm Nghi- Huế ngày đó còn có bút danh Thông Đạt, Nguyên Thông và là tác giả bài hát nổi tiếng “Ai về sông Tương” tài hoa tuyệt vời không cũ đi theo dấu ấn thời gian…Thầy ơi, con là cậu học trò hư đốn xin tạ tội với thầy. Chính con đã hát hàng triệu lần “Ai có về trên bến sông Tương/ Nhắn người duyên dáng tôi thương…” cũng chẳng nhận ra tác giả là người thầy yêu kính khiêm tốn của mình dưới mái trường ngày ấy.
Từ Đàm của thời đồng ấu chúng tôi, Từ Đàm của bài học từ bi hỉ xả, Từ Đàm của dây thân ái lan rộng muôn nhà…Thầy Văn Giảng ơi, giờ người tuổi già tận trời xa- con xin cảm ơn thầy hàng triệu triệu lần giai điệu và ca từ “Từ Đàm quê hương tôi” nhẹ nhàng sâu lắng thiết tha dìu dặt đã đưa chúng con trở về với ngày tháng Từ Đàm yêu dấu…
Nhớ Từ Đàm mùa pháp nạn 1963, những đứa con hiền như Bụt vụt đứng dậy vươn cao dữ dội- có cả lửa thiêng và bão tố xua tan bạo quyền áp bức. Ngọn lửa thầy Tiêu Diêu tiếp cho Từ Đàm và lớp lớp con Phật “Uy vũ bất năng khuất”. Thầy Trí Quang trước sân chùa Từ Đàm đã cất cao tiếng nói đại hùng đại lực trong hai cuộc biểu tình ngày 10 và 15 tháng 5 năm 1963: “-Phật giáo đồ chỉ ủng hộ chính sách bình đẳng tôn giáo! - Đã đến lúc chúng tôi bị bắt buộc phải tranh đấu cho chủ trương tôn giáo bình đẳng! - Chúng tôi không từ chối một hy sinh nào! - Cờ Phật giáo quốc tế không thể bị triệt hạ! - Phật giáo đồ nhất trí bảo vệ Chánh pháp dù phải hy sinh! - Phản đối chính sách bất công gian ác!”.
Ngày ấy- lần đầu tiên cậu bé oanh vũ trong tôi hiểu hai chữ bất khuất của Phật giáo trước cường quyền. Đỉnh cao của sự giàu sang cũng không được phép đàng điếm, dâm ô, phung phí, hưởng lạc, trác táng, đồi trụy. Tận cùng của nghèo nàn, khổ sở cũng cố giữ gìn nhân phẩm, giá trị con người, không được dời đổi, đánh mất nhân cách của mình, không được làm những gì trái luân thường đạo lý. Trước cường quyền, bạo lực, không khiếp nhược, hèn hạ, quỳ lụy, cầu xin để trở thành nô lệ kẻ khác. Không bị mê hoặc bởi lý tưởng của ai như kẻ cuồng tín chủ nghĩa- cũng còn có nghĩa là không nên đem cái lý tưởng, cái ý kiến của mình để áp đặt, khống chế ai, bắt buộc phải tuân phục ý kiến mình, bài bác hết mọi ý kiến, lý lẽ nào trái với ý mình. Bao năm rồi xa Từ Đàm con vẫn nhớ lời thầy một thuở Từ Đàm như uống triệu lời kinh…
Nhớ Từ Đàm- đó là những ngày cắm trại của đoàn áo lam thân ái. Thời ấy chúng tôi chỉ có thể đôi chân đi bộ, hiếm hoi mới có mấy anh cỡi xe đạp. Những buổi trưa hè nắng gắt nhóm chúng tôi dịch vội mật thư rồi ào chạy xuống Báo Quốc qua Tường Vân lên tận Từ Hiếu, có hôm tìm được “hủ vàng” nhưng mở ra chỉ mấy cây kẹo bọc giấy vàng- mồ hôi mồ kê nhễ nhại, mệt đứt hơi thế mà vô tư vui vẻ… Giật giải trò chơi lớn mỗi kỳ trại là bề dày thành tích của cả ba đứa - có nhớ không Thành, Hữu một thời gia đình Phật tử Từ Đàm? Mùa mưa lê thê xứ Huế, chúng tôi vẫn kiên trì đội nón mang tơi lên chùa sinh hoạt. Mẹ bảo: Các con giỏi lắm! Cố giữ tâm Phật cho tới cuối trời góc biển. Mẹ ơi! Mẹ, Từ Đàm và Huế nuôi con lớn khôn đủ lông đủ cánh rồi biền biệt soãi cánh bay xa. Bao nợ nần lần lữa hẹn hò mà có trả được gì đâu?
Từ Đàm với Huế tuy hai mà một. Ngôi chùa là biểu trưng -là máu thịt của Huế của tôi. Từ Đàm trong tâm thức- đó là tiếng kinh mỗi buổi công phu, giọng thầy trầm ấm như dặn dò dạy bảo chúng con làm lành tránh dữ, kỉnh Phật trọng tăng, dứt lòng tà, giữ lòng thành; trong sạch thể chất và tinh thần- lời nói và việc làm để vươn tới viên mãn trên đường đạo.
Bốn mươi năm xa Huế xa mái chùa dấu yêu, tôi như đứa trẻ bơ vơ lạc loài đất khách. Chiều nay từ nơi xa bần thần nhớ chùa xưa lòng thầm nhủ- dù chậm hay muộn màng nhưng thế nào tôi cũng trở về mái chùa tuổi thơ …
-------------------------------------------------------------------------------------
Lê Quang Kết
20 Nguyễn Thái Bình, Phường 2, Tp. Bảo Lộc- Lâm Đồng
ĐT: 0633 717 123 - 0907 615 510
Email: lequang54@gmail.com

Chủ Nhật, 4 tháng 9, 2011

NIỀM HẠNH PHÚC...

NIỀM HẠNH PHÚC VÀ ƯỚC MƠ XANH CỦA CHÀNG VÂN (*)
Lê Quang Kết
Chàng trai Nguyễn Đức Vân rất trẻ. Anh sinh ra và lớn lên với núi rừng, thừa hưởng ở cha mình một núi thơ và sự gắn bó hồn hậu với rừng xanh.
Thuở nơi này còn hoang vắng Vân đã có ngày tháng vỡ hoang đào xới trồng cây phủ xanh đồi thông Phương Bối. Bẵng một thời gian tôi nghe anh bỏ rừng về với phố thị. Một chút hụt hẫng trong tôi nhưng không- chỉ là chuyện mưu sinh và chắt chiu vốn liếng để Vân quay về với ngày xưa ấy…về với núi rừng …
Anh bảo với tôi cách đây 5 năm:- Trồng sim và vườn ca dao, đó là ý tưởng và nguyện ước của mình trên đất này…Tôi ngập ngừng e ngại :- Hay là trồng một ít cà phê hay chè để độ nhật…Nhưng chàng Vân đâu chỉ có thế!
Người kể cũng lạ. Vân chẳng qua trường lớp, ngày nhỏ trên núi mẹ dạy anh đọc viết rồi cô Sáu dạy kèm Vân mấy năm bậc tiểu học. Anh phải tìm cách tự học để hoàn tất chương trình phổ thông trung học- vươn lên làm người có ích và khẳng định mình. Cách đây 10 năm anh ra tập thơ đầu tay “Người đẹp”- một sự khổ luyện câu chữ. Nhàn đàm với Vân tôi có thêm điều bổ ích bổ sung vào trang giáo án- bài giảng môn ngữ văn.
Từ thơ anh bước vào nhạc cũng nhẹ nhàng tự nhiên từ giai điệu đến ca từ. Chỉ mấy năm ba đĩa hát “Đồi thông Phương Bối”,“Màu yêu thương”, “Hoa trái ngày thơ” ra đời. Nghệ sĩ ưu tú Tạ Minh Tâm; ca sĩ Hồng Hạnh, Thùy Dương, Thanh Thúy, Vân Khánh… đã tham gia biểu diễn và có lời khen ý vị, tương cầu. Mới đây tôi lại được đọc tập bản thảo tập thơ “Cánh hoa vừa hé” của Vân sắp in- những tứ thơ rất lạ và rất riêng của chàng trai rừng thuần khiết…Đọc thơ nghe nhạc chàng Vân, một tình cảm chân thành thấm đẫm tình yêu thiên nhiên buổi ban sơ, trân trọng nâng niu sự trong lành của cỏ cây hoa trái…
Đồi sim- ước mơ xanh của chàng Vân giờ đã hiện thực. Mùa sim năm rồi tôi đã có những ngày vui bên anh. Mấy ngàn gốc sim rừng tự tay Vân đào bới vun trồng giờ đã tím xanh khu đồi. Câu ca dao về sim người quê tôi hò trại ra, một dị bản lạ-“Đói lòng dạo rú hái sim/ Uống lưng bát nước đi tìm người thương”. Không hiểu lẽ gì ra thế? Dù là “ăn nửa trái sim” hay “dạo rú hái sim”- tôi nghĩ dân gian có lý lẽ riêng mà nghiệm ra lời nào cũng đắc địa đầy thi vị. Ngày nhỏ mùa sim quê nhà tôi đã cùng mẹ dạo rú hái sim. Mấy chục năm rồi tôi mới tìm lại được khoảnh khắc yêu thương thơ mộng và lãng mạn đến thế. Cảm ơn chàng Vân và đồi sim lộng gió…
B’Lao đang mùa mưa. Chàng Vân lo lắm. Mấy người bạn thợ đá đầu đèo Bảo Lộc nghe chuyện Vườn Ca Dao- họ đồng cảm muốn được chia sẻ với Vân. Đó là đá, đá là chuyện hàng đầu để có vườn ca dao. Cả mấy tháng trời chạy vạy hì hục với sự hỗ trợ của xe máy cùng bạn bầu, Vân đã có hàng trăm khối đá, có tảng nặng tới mấy chục tấn.
Phía trước đang chờ chàng Vân chẳng dễ dàng gì. Sắp xếp đá đan xen với khu vườn và lối đi như thế nào để có một tổng thể- sim- đá- ca dao và ca dao hài hòa dân dã giữa trời mây sông nước? Rồi chuyện chạm khắc ca dao trên đá phải ra sao để tụng ca- tôn vinh những viên ngọc bích mộc mạc của dân gian? Anh cười tươi thanh thản- bài ca dao được khắc lên đá đầu tiên trong vườn sẽ là: “Một đời gánh nắng gánh mưa/ Mòn vai mà mẹ vẫn chưa yên lòng”…
Ngày khai trương vườn ca dao để mọi người thưởng ngoạn Vân dự tính vào mùa xuân Nhâm Thìn. Tôi đang chờ mong từng ngày còn chàng Vân thì gọi ngày đó là “Niềm hạnh phúc và ước mơ xanh"
(*) Đồi sim và vườn ca dao của Nguyễn Đức Vân tọa lạc ở thôn 3, xã Lộc Châu thuộc Tp. Bảo Lộc, Lâm Đồng. Hiện anh đã trồng được khoảng 3000 gốc sim rừng đang sum xuê xanh tốt, đá tảng được đưa về vườn chừng vài trăm viên có tảng nặng mấy chục tấn- anh đang chuẩn bị chạm khắc ca dao lên đá- dự kiến hoàn thành trước tết Nhâm Thìn. Nguyễn Đức Vân ở Bảo Lộc được bà con bạn bè thích thú yêu mến gọi là -Chàng trai của niềm hạnh phúc và ước mơ xanh. Số điện thoại của chàng Vân: 0918 649 707

Lê Quang Kết
20 Nguyễn Thái Bình, Tp. Bảo Lộc, Lâm Đồng
ĐT: 0633 717 123- 0907 615 510
Email: lequang54@gmail.com

Thứ Ba, 23 tháng 8, 2011

PHÁT BIỂU NHÂN THU HOẠCH PHÂN MÔN TRIẾT HỌC MÁC- LÊ-NIN- SAU ĐẠI HỌC – TỪ NGÀY 12/8 – 21/8/2011

Kính thưa Quý vị quan khách
Kính thưa Thầy Nguyễn Tiến Hữu
Kính thưa Ban Giám hiệu nhà trường
Kính thưa các anh chị đồng nghiệp tham gia lớp học
Tôi ký tên dưới đây là Lê Quang Kết, giáo viên ở mức trung bình của Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Bảo Lộc- xin có lời thưa nhân thu hoạch bộ môn Triết học Mác- Lê- nin do thầy Thạc sĩ Triết học- nếu tôi nhớ không lầm là thầy đã bảo vệ Luận văn Thạc sĩ loại xuất sắc (phát ngôn của thầy có đông đủ các học viên cùng nghe). Lâu lắm rồi từ ngày ngưng tham gia giảng dạy môn triết tôi lại được vinh dự và tự hào sống trong bầu không khí “Yêu mến sự thông thái” mà thời trai trẻ say mê và yêu thích. Được học với thầy Hữu tôi thấy mình như được lớn lên thêm về giọng nói của người xứ Nghệ to rõ minh triết như nhà hùng biện- thuyết khách thời Trung cổ đi chu du làm công việc du thuyết khắp thiên hạ về học thuyết của mình. Thầy còn là đại kiện tướng và dự bị đại kiện tướng của nhiều bộ môn thể dục thể thao như bắn súng, võ thuật, các môn phối hợp trong lực lượng vũ trang và hình như còn các lĩnh vực học thuật khác mà tôi chỉ nghe thầy giảng qua loáng thoáng… Có một thầy giáo giảng dạy Triết học như thế quả là niềm tự hào cho đội ngũ tri thức chuyên ngành triết học của nước nhà. Riêng bản thân tôi thì cho đó là tài sản quý báu như trân châu của đất nước cần được xiển dương và ra sức bảo vệ- mất đi là một sự thiệt thòi lớn cho Tổ quốc.
Cầm cuốn bài giảng triết học trong tay tôi sung sướng đến chảy nước mắt. Tài liệu giảng dạy là công sức tâm huyết và trí tuệ của thầy mình- câu trong Kinh thi được các học trò của Khổng Tử sưu tập mà tôi được nghe từ thuở nhỏ hiện về trong trí nhớ “ Nhất tự vi sư bán tự vi sư”. Mình may mắn và diễm phúc được học với một người thầy toàn diện về cả năng lực trí tuệ lẫn sức mạnh cơ bắp. Thầy còn biên soạn cả bộ Giáo trình Triết học Mác- Lê- nin dày cộm với nhiều các khái niệm thuật ngữ trừu tượng khó hiểu- phía dưới ký tên đầy xác tín: Th.S: Nguyễn Tiến Hữu. Thôi thì từ từ về nhà hẳn hay. Thế nhưng khi đối chiếu với tập bài giảng của Khoa Triết Trường Đại học Kinh tế quốc dân thì hỡi ôi…nó y chang 100% kể cả các dấu chấm phẩy và phần chú thích cùng số dòng số trang…Hay là mình nhầm lẫn chăng? Cô Ngoan bảo rằng Thầy Hữu nói thầy có sửa chữa bổ sung và hiệu đính tập bài giảng này để trở thành của mình…Ừ thì gặp thầy Hữu để hỏi vậy? Thầy đã bổ sung chỗ nào? Dòng nào? Trang nào? Nhóm tác giả biên soạn có đồng ý không? Căn cứ khoa học nào cho việc làm ấy…Và còn nhiều thứ khác nữa như Công ước Bern về quyền sở hữu trí tuệ, về quyền tác giả, rồi chuyện đạo bài giảng giáo trình đang nở rộ những năm gần đây- trong đó có người là Giáo sư Tiến sĩ…Tôi tá hỏa và bỗng nhiên đâm ra lo lắng cho thầy mình. Nếu sinh viên hay người học hay tác giả kiện tụng thầy mình thì sao đây? Lỡ ra thầy mình bị truy tố vì tội đạo thì biết đâu lại liên đới đến cậu học trò say mê triết học như mình?...Một loạt những câu hỏi dễ và khó lẩn quẩn trong đầu cậu học trò năm nay đang là lứa U.60 như tôi…Không khéo mình stress mất.
Tôi cố gắng thật sự để tập trung nghe giảng. Bài hát hàng năm vào dịp 20 tháng 11 thổn thức: Khi thầy chép bài bụi phấn rơi nghiêng/ Có hạt bụi nào rơi trên bục giảng/ Có hạt bụi nào rơi trên tóc thầy…Cố lên. Chúng tôi đang cố học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh- đặc biệt là tấm gương tự học của người. Một người Việt chỉ vốn liếng tiếng Pháp ít ỏi ở bậc phổ thông đã tự vươn lên để làm chủ bút kiêm phóng viên của hai tờ báo xuất bản ở Pháp- tờ Le Paria và L’humité. Bác của chúng ta nặng lòng vì Tổ quốc thế nên chẳng có thời gian cắp sách ngồi đũng trên ghế nhà trường. Lòng đang miên man thì nghe tiếng giảng đinh chắc của thầy: - Bác Hồ có tới bốn bằng Tiến sĩ, tôi nói có bằng chứng hẳn hoi…Tôi sững sờ…hay là mình nghe nhầm. Hỏi người ngồi kế bên. Đúng thầy Hữu nói như thế, anh không tin sao? Tôi tin thầy mình chứ. Nhưng đành phải hỏi thầy một đôi câu cho ra lẽ: - Bốn bằng Tiến sĩ của Bác do trường Đại học nào cấp? Dựa trên tư liệu nào? Tác giả là ai? Nhà xuất bản nào? Năm xuất bản? Tác giả đó và nhà xuất bản kia độ tin cậy đến bao nhiêu phần trăm…là vừa…
Một nhà khoa học người thầy triết học- khoa học của mọi khoa học mà thiếu tinh thần khoa học đến độ ấy sao. Tôi không tưởng tượng nổi?
Cụ Nguyễn Du là thiên tài văn chương nước nhà. Truyện Kiều là thông điệp gửi đi cho mọi thế hệ, bởi vì lúc nào ở đâu chúng ta cũng tìm thấy ở đó những điều kỳ thú mới lạ. Thậm chí nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh còn nói quá khi viết: Truyện Kiều còn nước ta còn tiếng ta còn. Thế nhưng một học sinh phổ thông cơ sở hay phổ thông trung học đều có thể trả lời: Nội dung truyện Kiều cụ dựa hoàn toàn vào tác phẩm viết bằng văn xuôi có tên là Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Vì thế chẳng ai dại gì để đưa ra luận cứ: - Cụ Nguyễn Du đã sáng tạo và dựng lên các nhân vật Vương Thúy Kiều, Kim Trọng, Thúc Sinh hay Từ Hải…Thế mà liên hệ bài giảng thầy đã đặt ra điều này với câu chữ và nhấn giọng đầy xác tín. Hóa ra thầy dạy triết của mình ngộ nhận và nhầm lẫn tai hại đến thế sao? Sao lại có người dạy đại học… và ấu trĩ đến thế! Cha ông ta từng khuyên con cháu: - Biết thì thưa thốt không biết thì dựa cột mà nghe. Văn chương hay triết học hay bất kỳ bộ môn khoa học nào cũng thiên hình vạn trạng và không ai tự hào mình biết hết mọi thứ. Hãy trở về vị trí khiêm tốn của mình- dù là người quét rác hay vận động viên gì gì đó… vẫn là chuyện của muôn đời, phải không thầy Th.S. Nguyễn Tiến Hữu?
Lão Tử là bậc hiền triết phương Đông là nhà duy vật. Học thuyết của ông có thể tóm tắt một số điểm cơ bản như sau:
• Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam vạn vật
• Người tri túc, không bao giờ nhục(tri túc bất nhục)
• Lưới trời lồng lộng, cao mà khó lọt'"Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất thất"
• Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái sinh vạn vật...
• Tự biết mình là người sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh. Thắng được mình là kiên cường.
• Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường danh
• Người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên". (đã dịch sang thuần Việt)
Thầy Hữu của chúng ta đã giảng chỗ này có thể nói là không hiểu gì cả mà còn mang màu sắc duy tâm huyền bí đưa con người vào chỗ mê tín. Tôi xin bổ sung đôi điều nhưng thú thật cũng chỉ là Cưỡi ngựa xem hoa thôi
Kinh (經 jīng) có nghĩa là một tác phẩm kinh điển, trong tiếng Hoa có gốc gác từ "quy tắc" hay "bền vững", hàm ý rằng tác phẩm này miêu tả những quy luật tạo hóa không thay đổi theo thời gian.
Dịch (易 yì) có nghĩa là "thay đổi" hay "chuyển động".
Khái niệm ẩn chứa sau tiêu đề này là rất sâu sắc. Nó có ba ý nghĩa cơ bản có quan hệ tương hỗ như sau:
• Giản dịch - thực chất của mọi thực thể. Quy luật nền tảng của mọi thực thể trong vũ trụ là hoàn toàn rõ ràng và đơn giản, không cần biết là biểu hiện của nó là khó hiểu hay phức tạp.
• Biến dịch - hành vi của mọi thực thể. Vạn vật trong vũ trụ là liên tục thay đổi. Nhận thức được điều này con người có thể hiểu được tầm quan trọng của sự mềm dẻo trong cuộc sống và có thể trau dồi những giá trị đích thực để có thể xử sự trong những tình huống khác nhau.
• Bất dịch - bản chất của thực thể. Vạn vật trong vũ trụ là luôn thay đổi, tuy nhiên trong những thay đổi đó luôn luôn tồn tại nguyên lý bền vững - quy luật trung tâm - là không đổi theo không gian và thời gian.
Tóm lại:
Vì biến dịch, cho nên có sự sống.
Vì bất dịch, cho nên có trật tự của sự sống.
Vì giản dịch, nên con người có thể qui tụ mọi biến động sai biệt thành những quy luật để tổ chức đời sống xã hội.
Hay: Thiên hạ chi động, trinh phù nhất (Dịch Hệ từ hạ truyện).
Từ các điều nói trên người ta đưa ra Càn- trời, Chấn- sấm, Khảm- nước, Cấn- núi, Khôn- đất, Tốn- gió, Ly- hỏa, Đoài- đầm. Nội quái và ngoại quái thành 64 quẻ ứng với mạng người. Nhiều chiêm tinh gia dựa vào quẻ để chấm tử vi, xem phong thủy và thậm chí là bói toán theo dạng đồng bóng. Tôi xin phép được nói một chân lý bất tuyệt: Th.S. Nguyễn Tiến Hữu chưa có thời gian và điều kiện để nghiên cứu Lão Tử - bát quái hay kinh dịch vì thế lại càng lúng túng và giải thích chẳng ra môn ra khoai. Học trò tôi thấy hơi ái ngại và buồn cười cho một người không chịu tìm tòi và có thể nói không quá là “Ếch ngồi đáy giếng”. Nếu đi hơi quá thì cho tôi xin lỗi…
Một vấn đề có đụng đến triết học- đó là thuyết tiến hóa của Darwin. Thầy nói đến hai lần hay ba lần gì đó về quy luật tiến hóa từ vượn người thành người và khẳng định một cách vô căn cứ: Người hiện đại nếu trên thân thể nhiều lông lá là người nguyên thủy chưa tiến hóa kịp hay nói cách khác- họ ngu đần hơn người bình thường. Nói như thế vô tình đụng vào nỗi đau người khác và riêng cá nhân- tôi cho rằng luận điểm này xúc phạm đến nhiếu cá nhân cả đang ngồi trong lớp học lẫn nhiều người ngoài cộng đồng xã hội. Đây là yếu tố có mối quan hệ huyết thống, di truyền, cơ địa mỗi người chứ không thể như ý kiến “Cả vú lấp miệng em” của thầy Hữu…Dù rằng tôi là người hoàn toàn ngoại đạo với lĩnh vực này. Tôi mong có anh chị nào tìm hiểu kỹ thuyết tiến hóa cho ý kiến thêm. Tôi thiết tha mong thầy Hữu tiếp thu để chúng ta cùng tiến bộ…
Th.S. Nguyễn Tiến Hữu còn trình bày bài giảng với nhiếu dẫn chứng phi khoa học và thiếu lôgic khi đưa ra chuyện thời bao cấp- việc sản xuất xăm lốp Sao Vàng. Một chiếc lốp Sao Vàng đưa sang Liên Xô cũ người ta mừng quýnh vì với một chiếc như thế người ta có thể làm tới mười chiếc. Có thể nói quá nhiều những liên hệ so sánh nhưng dẫn chứng của thầy chỉ cốt để gây cười- nghiệm ra thì vô bổ xằng bậy chứ chưa nói đến phản tác dụng và nếu ở độ tuổi sinh viên thì đó là chuyện Vạch đường cho hươu chạy. Sinh viên với tuổi thanh niên tò mò hiếu kỳ- cách giảng của thầy như thế sẽ là mối nguy hiểm cho nhiều thế hệ được học triết học ông Hữu. Mong thầy Hữu thận trọng và tự đánh giá lại bản thân mình. Điều này tôi biết vô cùng khó nhưng tôi tin chắc một giảng viên triết học dày dạn kinh nghiệm và một thể lực sung mãn như thầy thì sẽ rất ư là dễ dàng. Phải không Thạc sĩ Nguyễn Tiến Hữu?
Cuối cùng là chuyện câu hỏi kiểm tra và thi. Tôi cho đây là chuyện hệ trọng bậc nhất của ngành giáo dục nói chung và của thầy trò nói riêng. Thầy Hữu cho 5 câu hỏi, chúng tôi ai cũng lo lắng và ghi chép cẩn trọng. Bốn câu đầu chỉ là kiến thức cơ bản từ sách vở -thôi cũng thế thôi. Câu thứ năm cuối cùng cũng có thể coi là đề mở. Chúng tôi may mắn có học đôi chút văn học vì thế thuộc câu của Phó Nguyên súy hội thơ Tao Đàn Thân Nhân Trung do chính vua Lê Thánh Tôn làm Chủ súy- Tao Đàn nhị thập bát tú quy tụ 28 ngôi sao ưu tú dưới thời Đại Việt thịnh thi. Nguyên văn là : “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và ngày càng lớn, nguyên khí suy thì nước yếu và ngày càng xuống cấp”. Thầy đã trích sai “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí mạnh thì đất nước thịnh. Nguyên khí suy thì đất nước yếu”- Bỏ hẳn hai ý khá cơ bản. Mọi người có đi học ai cũng biết trích dẫn bất kỳ câu nói của người nào sách nào đều phải nguyên văn không thêm không bớt, còn phải ghi rõ nguồn và có chú thích rõ ràng. Hay câu này do thầy Hữu sáng tạo ra cũng nên- được thế thì không biết chừng…Thầy tôi trên cả tuyệt vời. Thầy ra đề sai thì sao nhỉ? Học trò nên làm hay tùy nghi để giấy trắng và đáp án sẽ sao đây? Hay là giảng viên giảng dạy sau đại học có uy quyền tuyệt đối muốn làm gì thì làm...
Pascal là nhà triết học và toán học từng phát biểu rằng: Cái tôi là cái đáng ghét. Nhà Phật cũng bảo: Phải diệt ngã để lớn lên. Thầy giáo đứng trên bục giảng phải luôn khiêm tốn trước học trò- nhiều người khuyên thế. Chúng tôi đều là người có tham gia giảng dạy ít nhiều. Bản thân tôi còn phải “Học, học nữa, học mãi”- dù rằng mình đang độ tuổi chuẩn bị nghỉ hưu. Tôi nói điều này với tâm tư trĩu nặng của một người cộng sản còn chút lương tâm. Mong thầy độ lượng hỉ xã và đại xá cho.
Lời chào cộng sản trân trọng nhất./.

Thứ Năm, 4 tháng 8, 2011

Bông hồng tặng mạ- Vu Lan 2555


Mạ yêu của con- Lê Quang kết

Thứ Tư, 3 tháng 8, 2011

Giai phẩm Vu Lan 2011


Đón đọc giai phẩm Giác Ngộ - Vu lan 2011
02/08/2011 10:50 (GMT+7)
Kích cỡ chữ: Giảm Tăng

Giác Ngộ - Giai phẩm Giác Ngộ - Vu lan 2011 được thực hiện với chuyên đề về tâm hiếu thảo, lòng khoan dung - những giá trị làm nên tình thương, hàn gắn những vết nứt trong cuộc sống hôm nay...

Quý độc giả thân mến,

Trước những thông tin về bạo lực, những chuyện tiêu cực hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhiều người tỏ ra lo lắng về chất lượng đời sống xã hội của chúng ta hiện nay. Dường như con người ngày càng ít có tính kiên nhẫn, nghèo lòng khoan dung, lãnh cảm đối với nỗi đau, sự bất hạnh…



Bìa Giác Ngộ số đặc biệt 601 - Vu lan 2011, PL.2555

Những lo lắng đó không phải là vô cớ. Sự bùng nổ của thông tin, cùng với kích thích về nhu cầu hưởng thụ vô cùng tận của thị trường, sự tấn công ồ ạt của các trào lưu, lối sống lệch lạc…; trong lúc đó định hướng về sự phát triển của xã hội qua giáo dục học đường thì mơ hồ, không thực sự thuyết phục, quản lý văn hóa thì chỉ mang tính rượt đuổi, đối phó mà chưa có chiến lược lâu dài… Một cách khách quan, chưa bao giờ lý tưởng phụng sự trở nên chông chênh, các giá trị sống bị hoài nghi như lúc này. Nhiều ý kiến được phát biểu, nhiều cuộc điều tra xã hội học được tiến hành, nhiều tiếng chuông cảnh báo đã được gióng lên, tất cả cùng một lời: Hãy hành động trước khi quá muộn!

Do vậy, ý nghĩa của Đại lễ Vu lan, hơn bao giờ hết, cần được phổ biến trong xã hội. Vu lan khởi nguồn được xem là ngày của niềm vui (hoan hỷ nhật), là dịp mà ở đó chư Tăng hội tụ sau 3 tháng chuyên tu, đối trước nhau thành thật tự phê bình và cầu mong người khác chỉ lỗi của mình để tự khắc phục và nỗ lực thăng tiến trong đời sống tâm linh (Tự tứ nhật).

Vu lan là lễ hội của lòng hiếu thảo, của tâm khoan dung với sự tích liên quan đến Tôn giả Mục Kiền Liên sau khi tu chứng liền nghĩ ngay đến người Mẹ của mình, nhờ Đức Thế Tôn hướng dẫn, nương nhờ oai lực Thánh chúng đã chuyển nghiệp khiến người Mẹ bị đọa vào ngạ quỷ được giải thoát kiếp đọa đày.

Vu lan là lễ hội của lòng tri ân và báo đáp ơn sâu, đối với người Phật tử, đó là ơn sâu của Tam bảo và Thầy tổ đã cho một hướng sống thiện lành, Cha mẹ đã cho hình hài và dày công dưỡng dục, Tổ quốc - xã hội đã truyền cho nếp văn hóa được hun đúc ngàn đời với bao hy sinh của các bậc tiền bối hữu công, Môi trường - Những nhân duyên trùng trùng khác đã hỗ tương cho ta sự sống này.

Chính vì vậy, giai phẩm Giác Ngộ - Vu lan 2011 được thực hiện với chuyên đề về tâm hiếu thảo, lòng khoan dung - những giá trị làm nên tình thương, hàn gắn những vết nứt trong cuộc sống hôm nay.
Nội dung chi tiết của giai phẩm được thể hiện ở hai tiểu mục lục: Tâm hiếu thảo - Lòng khoan dung (trang 16) và Lời yêu thương (trang 50).

Bạn sẽ được lắng lòng và cảm nhận đầy đủ hơn về hiếu hạnh -hạnh lành được đức Phật dạy là hạnh Phật qua các bài viết dưới đây:

1.Hiếu thảo & lòng khoan dung:

-Sanh tử sự đại (HT.Thích Thanh Từ)

-Mùa hội Thánh (Hạnh Chiếu)

-Phật dạy làm cha mẹ (Chúc Phú)

-Gia tài thực thụ (Khải Thiên)

-Hạnh hiếu và lòng khoan dung (Nguyên Cẩn)

-Phục hồi một xã hội hiếu thảo (Nguyễn Thế Đăng)

-Vướng lụy hình hài (Tịnh Minh)

-Hiếu của Người - Hiếu theo Phật (Ngô Khắc Tài)

-Ngôi chùa theo tinh thần Pháp Hoa (HT.Thích Trí Quảng)

-Xin lỗi hoa Quỳnh (Như Đức)

2.Lời yêu thương:

-Triết lý đi tìm người thương (Thích Phước Đạt)

-Cha mẹ: Thầy dẫn đạo cho con (Vĩnh Hảo)

-Hành điệu (Thông Quảng)

-Nhánh cỏ - Cánh đồng & gió (Trương Đạm Thủy)

-Mẹ & một chuyến đi (Huệ Giáo)

-“Bông hồng cài áo” - Giai điệu & ca từ tuyệt mỹ về mẹ (Lê Quang Kết)

-Níu dấu chim bay (Hạnh Đoan)

-Sâu thẳm tình thương (H.Diệu)

-Nợ một lời ca dao (Doãn Lê)

-Cái bếp của mẹ (Võ Khoa Châu)

-Ngàn lời yêu thương (Cao Ngọc Hồng Ân, Lê Đình Ký, Hiền Linh, Óc Tiêu)

-Tháng Bảy mùa chay - những cung bậc và nỗi niềm (Pháp Đàm)

Và thơ của Trần Quê Hương, Nguyễn Đức Dũng, Võ Thị Hồng Tơ, Phan Thành Minh, Nguyên Tiêu, Nguyễn Miên Thượng, Đông Tùng, Nguyễn Đức Vân, Trần Huy Minh Phương, Nguyễn Dũng, Nguyễn Thánh Ngã, Hà Đức Ái)…

Báo sẽ phát hành vào ngày 6-8-2011, kính mời bạn đọc đón theo dõi. Thông tin chi tiết, xin liên hệ Ban Phát hành, Tel: (08) 39300675 - 39306982

Giác Ngộ

Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2011

Giai điệu và ca từ mỹ cảm về mẹ- Lê Quang Kết


Mùa Vu Lan Phật lịch 2555 (2011)
“BÔNG HỒNG CÀI ÁO”- GIAI ĐIỆU VÀ CA TỪ MỸ CẢM VỀ MẸ
Lê Quang Kết
“Bông hồng cài áo” của nhạc sĩ quá cố Phạm Thế Mỹ lấy ý tưởng từ tùy bút cùng tên của Thiền sư Nhất Hạnh. Bài tùy bút ra đời từ năm 1962 Phật lịch 2507, khoảng một năm sau vào mùa Vu Lan 1963 đoàn áo lam chúng tôi được nghe đọc “Bông hồng cài áo” trong lần sinh hoạt sau thời công phu- lễ Phật ở chùa Thiên Minh, ngôi chùa đậm dấu ấn kỷ niệm của Thiền sư những ngày tu học ở Huế.
Giọng Huế trầm đầm ấm của chị huynh trưởng làm chúng tôi rưng rưng, nhiều chị em nữ khóc thút thít. Bài thơ ngũ ngôn sau lời mở- những dòng thơ khóc mẹ ngày mẹ ra đi mà những ai còn mẹ hay mất mẹ đều nghe lòng lo sợ…sợ đến một ngày kia: “Năm xưa tôi còn nhỏ/ Mẹ tôi đã qua đời/ Lần đầu tiên tôi hiểu/ Thân phận trẻ mồ côi/ Quanh tôi ai cũng khóc/ Im lặng tôi sầu thôi/ Để dòng nước mắt chảy/ Là bớt khổ đi rồi/ Hoàng hôn phủ lên mộ/ Chuông chùa nhẹ rơi rơi/ Tôi biết tôi mất mẹ/ Mất cả một bầu trời”. Cả một bầu trời yêu thương, cả một dòng suối dịu hiền, cả một mạch nguồn bao la như biển xanh ngọt ngào vỗ về con thơ giờ đây không còn nữa. Anh chị không còn trong vòng tay yêu thương của mẹ, anh chị sẽ nghe cõi lòng mình trống vắng và là thời khắc anh chị như chú chim non cánh mỏng bơ vơ lạc lối- bởi vì có mẹ là có đủ mọi thứ trên đời- mẹ là tất cả…
Giai điệu và ca từ nhẹ nhàng sâu lắng “Một bông hồng cho em/ Một bông hồng cho anh/ Và một bông hồng cho những ai/ Cho những ai/ đang còn Mẹ/ đang còn Mẹ/ để lòng vui sướng hơn…”. Tùy bút thầy Nhất Hạnh kể chuyện từ xứ Phù Tang- bước chân nhẹ trên phố xa- một nhóm sinh viên trẻ thầm thì to nhỏ với người đồng hành rồi cài lên ngực trái thầy một bông hồng trắng. Hỏi ra mới biết nếu ai còn mẹ thì sẽ nhận một nụ hồng. Một nụ hồng yêu thương- một nụ hồng tuyệt vời cao cả bởi một lẽ anh chị đang còn mẹ để lòng vui sướng hơn. Mùa báo hiếu năm nao chúng tôi đã lặng thầm thổn thức khi trong buổi lễ “Bông hồng cài áo”- trên ngực ai cũng điểm một nụ hồng còn oanh vũ Liên, Hạnh lại phải cài một nụ bạch hồng. Mẹ của em đã bị dòng nước lũ thịnh nộ cuốn trôi trong lần chèo ghe vớt củi trận lụt tháng bảy năm xưa…Khổ thân em biết mấy Liên, Hạnh ơi?! Ngày ấy xa rồi anh chị biết không?- trong ca dao mẹ, có cậu bé lớn khôn trong vòng tay mẹ cha êm ấm, chuyện nhà không may gặp cơn túng bấn phải tha hương mưu sinh, vật lộn giữa dòng đời cay nghiệt khi đó mới hiểu ra- công cha mẹ là biển trời: “Cơm cha cơm mẹ đã từng/ Con đi làm mướn kiếm lưng cơm người/ Cơm người khổ lắm mẹ ơi/ Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi vừa ăn”.
Tứ khổ: sinh lão bệnh tử- ai trên đời mà không chết? Chết là quy luật là lẽ thường của tự nhiên, cái chết không loại trừ bất cứ ai. Nhưng cái khổ lớn nhất của những đứa con trên đời là ngày mất mẹ. Mẹ ơi! Hai tiếng thiêng liêng đi suốt cả cuộc đời con những lúc- hỉ nộ ái ố sầu bi- khổ đau, buồn vui hay hạnh phúc. Ngôn ngữ nói và viết dường như bất lực phải cần thêm vỏ âm thanh giai điệu:“Rủi mai này Mẹ hiền có mất đi/ Như đóa hoa không mặt trời/ Như trẻ thơ không nụ cười/ ngỡ đời mình không lớn khôn thêm/ Như bầu trời thiếu ánh sao đêm…”. Còn mẹ sẽ là tình yêu thương tròn đầy viên mãn. Còn mẹ là diễm phúc lớn trên đời này của những đứa con. Hình như tôi đã đọc đâu đó một điều giản dị về mẹ: Anh chị lớn bao nhiêu tuổi, làm nên biết bao công trạng nhưng đứng trước mẹ anh chị cũng chỉ là đứa con bé nhỏ như ngày xưa mẹ yêu thương, nâng niu bú mớm dỗ dành…Xưa nay đông tây đều thế- con trẻ sẽ không lớn khôn thêm nếu thiếu vắng bàn tay nâng niu âu yếm của mẹ. Người lớn mà mất mẹ cũng thấy mình thiệt thòi trống rỗng không còn người lo toan cận kề che chở… Lời và nhạc như thúc giục nhắc nhở bao đứa con hãy làm một việc gì đó có ý nghĩa ngày mẹ còn trên trần thế. Mẹ mất như bông hoa thiếu ánh mặt trời, như đứa trẻ môi khô héo cằn già nua trước tuổi và bầu trời thiếu vắng ánh sao khuya cứ tối mò mù mịt như đêm ba mươi…
Bài hát đi vào điệp khúc : “Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền/ Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên/ Là bóng mát trên cao/ Là mắt sáng trăng sao/ Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối/ Mẹ, Mẹ là lọn mía ngọt ngào/ Mẹ, Mẹ là nải chuối buồng cau/ Là tiếng dế đêm thâu/ Là nắng ấm nương dâu/ Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời…”. Có thể nói những mỹ từ đẹp nhất về mẹ được cất lên. Các anh chị hãy lắng nghe lời ngọt ngào từ mẹ.Tiếng ru ầu ơ bên vành nôi tuổi thơ; bàn tay mẹ sờ lên trán nóng khi con biếng ăn biếng quẫy; nước mắt mẹ sầu lo khi nghe tin con mình bất hạnh tai ương; chiều về dáng mẹ thẩn thờ ngồi trông con vời vợi nơi xứ lạ quê người- biết xuân này nó có về không?...Chao ôi! Lời nào để bày tỏ hết ân tình thăm thẳm công ơn sâu dày của mẹ. Hình như là thế -“Ngôn ngữ trần gian túi rách/ Đựng sao đầy hai tiếng mẹ ơi!”. Lời và nhạc điệp khúc không cần đến ca sĩ tài năng hay ưu tú- ai hát cũng làm người nghe sầu thương buồn nhớ mẹ. Có chàng trai bụi đời sương gió- là trùm du đãng một vùng. Sau khi đọc và nghe tùy bút cùng bài hát “Bông hồng cài áo”anh ta “đốn ngộ”-hoàn lương quay về với mẹ, từ bỏ một thời ngang tàng lầm lỡ…
“Bông hồng cài áo”, Thiền sư Nhất Hạnh viết: “Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang còn sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi: "Mẹ ơi, mẹ có biết không?”.Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười "Biết gì?". Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: "Mẹ có biết là con thương mẹ không ?”. Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi người cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng” . Có thể nói đây là đoạn nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đã gần như trung thành với nguyên bản- một sự rút gọn tuyệt vời từ văn xuôi thành ca từ: “Rồi một chiều nào đó/ anh về/ nhìn Mẹ yêu/ nhìn thật lâu/ Rồi nói/ nói với Mẹ rằng "Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không ?” " Biết gì ?Biết là, biết là con thương Mẹ không?”. Tôi nghĩ phải là nhạc sĩ tài hoa mới đủ tầm để biến hóa tài tình ra vậy. Nói ra điều đó “Biết là, biết là con thương mẹ không?”- anh chị sẽ nghe lòng thanh thản nhẹ nhỏm và hạnh phúc lạ thường. Như lời sám hối với mẹ. Lâu nay con đã làm bao điều sai trái hư đốn, chơi bời lêu lỏng làm mẹ buồn. Và từ đây con sẽ sống tốt hơn có ý nghĩa hơn. Từ đây con vâng lời mẹ cha, cố lên chăm học chăm làm, làm điều lành tránh điều dữ, thực hành tam quy ngũ giới, tu tâm dưỡng tánh giữ trọn đạo làm người…Chỉ thế thôi là đủ phải không anh chị?
Anh chị đi hết đời lòng mẹ vẫn theo. Mẹ có thể vì con mà hi sinh tính mạng. Mẹ có thể vì con mà từ bỏ mọi thứ của cải và mọi điều ân sủng quý giá nhất. Mẹ là ngọn lửa vĩnh hằng: “Dẫu là nguyên thủ quốc gia/ Hay là những anh hùng/ Là bác học hay là ai đi nữa/ Vẫn là con của một người phụ nữ/ Một người đàn bà bình thường/ Không ai biết tuổi tên”( Xuân Quỳnh). “Bông hồng cài áo” kết thúc với điệp ngữ: “Đóa hoa màu hồng vừa cài lên áo đó anh/ Đóa hoa màu hồng vừa cài lên áo đó em/ Thì xin anh/ thì xin em/ Hãy cùng tôi vui sướng đi”. Lời hát và ca khúc vang lên giai điệu cuối: “Hãy cùng tôi vui sướng đi”…Thế mà âm vang về mẹ trong anh trong chị vẫn còn vọng lại. Mẹ ơi, mẹ ơi…Buồn thương lắm, man mác lắm, chan chứa lắm, bao la lắm, tha thiết lắm người ơi!
Tùy bút (hay bút ký nhỉ?) “Bông hồng cài áo” của thầy Nhất Hạnh đã xuất hiện và tồn tại gần năm mươi năm trong lòng bao đứa con của mẹ. Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ phổ nhạc cũng đã chừng ấy năm; hằng ngày hằng đêm, mỗi mùa Vu Lan và khi buồn nhớ mẹ chúng ta lần giở trang tùy bút và lắng nghe giai điệu “Bông hồng cài áo”- để lòng thấu hiểu hơn- dày và dài thêm công ơn cha mẹ.
Tôi đang còn mẹ. Anh chị biết không? Mẹ tôi năm nay đã ngoài tám mươi, còn tôi đang bước vào lục thập, vậy mà tôi chưa làm được điều gì cho mẹ vui… Hơn ba mươi năm rồi tôi vẫn chưa kịp về với mẹ, chỉ thưa thớt mấy bữa phép năm. Căn nhà nhỏ nơi quê nhà mẹ vẫn cặm cụi hôm sớm. Đứa con bất hiếu cứ mãi chen chúc lợi danh, bao toan tính bon chen thu vén cho gia đình vợ con, cố tìm nơi chốn yên lành…“Mẹ không còn ở lâu với ông nữa đâu!”- ai đó thầm nhắc nhở, thúc giục… Mỗi ngày qua lòng tôi lại bồn chồn lo lắng. Căn nhà nhỏ thời thơ ấu của mẹ hiện về. Những bữa cơm đơn sơ đạm bạc, những hôm mưa dầm gió bấc, những ngày nắng rát gió Lào- mẹ tôi đôi quang gánh hàng xáo lầm lũi tần tảo nuôi con. Giờ đây ốm đau trái gió trở trời ai người chăm sóc, phụng dưỡng. Mẹ ơi, cái ngày con xa mẹ đang gần, Vu Lan sắp tới con có còn cài nụ hồng lên ngực …Câu chuyện ngày cũ trong điệu hò xứ Huế càng làm tôi đau đáu chạnh lòng. Chuyện rằng: Có hai vợ chồng nghèo khó túng bấn ngày mẹ mất họ chỉ lo ma chay qua quýt. Rồi họ cố lên tát cạn biển đông, câu hò ước nguyện trước bàn thờ vong linh mẹ: “Hò ơ…Nuôi con chẳng quản chi thân…ơ…hò…Bên ướt mẹ nằm bên ráo con lăn…ơ…Ôi… Lấy chi đền nghĩa khó khăn…ơ…hò…Thôi thì hai đứa mình lên non xắn đá xây lăng mà phụng thờ…hò…ơ…”
Biết con có làm được điều ấy không, mẹ ơi?
-------------------------------------------------------------------------------------
Lê Quang Kết
20 Nguyễn Thái Bình, Tp. Bảo Lộc, Lâm Đồng
ĐT: 0633 717 123 – 0907 615 510
Email: lequang54@gmail.com

Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2011

CHIẾC TRỐNG ĐẤT- Huy Cận


Chiếc trống Đất



Thuở nhỏ chăn trâu lên mái núi,

Tôi cùng chúng bạn chơi trò chơi,

Lấy dao đào đất làm tang trống,

Căng một dây rừng, đánh cúng trời.



Chiếc trống vang lên điệu cổ sơ

Vang từ lòng đất. – Đến bây giờ

Tôi còn nghe rõ trong chiều lặn

Tiếng dội như là đất thở ra.



Bóng núi lan nhanh xuống cánh đồng,

Theo từng nhịp trống dội mênh mông.

Trời như cũng xuống gần thêm chút,

Vang động hoàng hôn một sợi rừng.



Hồn trẻ nghe trong chiều vợi vợi,

Đất trời gần gũi tiếng nguyên sơ:

Xuống đồng, tiếng núi lăn theo xuống

Bản nhạc đầu tiên của tuổi thơ.



(7-1974)

ĐOÀN CHUẨN- Một giai thoại đẹp và buồn


VĂN QUANG - Ðoàn Chuẩn một giai thoại đẹp và buồn
(07/22/2011 06:02 PM) (Xem: 210)

Có những đêm về sáng
Ðời sao buồn chi lắm cố nhân ơi!

Ðó là nhạc Ðoàn Chuẩn. Nhạc của ông thường vẳng lên trong tâm tưởng tôi suốt 12 năm nằm trong “trại cải tạo” giữa những núi rừng miền Bắc giá buốt và miền Nam hiu quạnh. Không còn là nỗi nhớ, không còn là những tiếc nuối mà là nỗi u uất, thăm thẳm mịt mờ. Còn gì bi thảm hơn những đêm về sáng, nằm một mình giữa rừng núi hoang dại và mình cũng dại dột nhìn về dĩ vãng. Tuy thế, nhìn về dĩ vãng vẫn hơn là nhìn về tương lai chẳng có gì, chẳng còn gì, cũng thăm thẳm mịt mờ như núi rừng đêm nay và tất cả mọi đêm.

Nỗi ao ước âm thầm: Ước gì được nghe trọn vẹn một bản nhạc của Ðoàn Chuẩn!

Ðau xót mà nghe, càng nghe càng thấm, nghe bao nhiêu đau bấy nhiêu, như người ta muốn khóc thật to để vơi được phần nào những buồn khổ. Nhưng làm sao nghe được trong hoàn cảnh đó. Cho nên nó cứ vương vất nghẹn nỗi đau làm sao. Chỉ trong hai câu trong bản nhạc đó thôi, hình ảnh của người yêu, của bạn bè bật dậy, cả một quãng đời hiện lên mơ hồ, quằn quại như điệu múa từ tiền kiếp, không bao giờ gặp lại.

Hôm nay giữa T P Saigon, tôi ngồi nghe lại cả một cuốn CD nhạc Ðoàn Chuẩn khi nghe tin anh mất. Từ Hà Nội một người bạn tôi điện thoại cho biết tin này đầu tiên, trước khi những tờ báo ở Sài Gòn loan đôi dòng về tin buồn này. Người bạn tôi đã có từng có thời gian ở Hải Phòng vào những năm 1952-1953 và cũng đã có một số kỷ niệm với anh Ðoàn Chuẩn. Tôi cũng có một vài kỷ niệm nhưng là rất nhỏ, trước hết là nó nhỏ với một nghệ sĩ lớn tuổi như Ðoàn Chuẩn, có lẽ đến sau này anh chẳng còn nhớ tôi là “thằng nhóc” nào. Bởi anh hơn tôi đến gần 10 tuổi. (Anh sinh ngày 15-6-1924, tôi sinh năm 1933). Tuổi 19-20 với tuổi 30 khác nhau nhiều lắm. Còn hơn thế, hồi đó anh đã là một nghệ sĩ có tên tuổi, còn tôi chỉ là một anh “nhí”, đang là một “mầm non văn nghệ”.


Ðoàn Chuẩn và nhóm văn nghệ Hoa Niên

Nhóm Văn nghệ Hoa Niên của Hải Phòng thành hình vào khoảng năm 1952 do họa sĩ Trọng Thường thành lập. Thời kỳ của những thành phố mới hồi sinh sau giai đọan đầu của kháng chiến chống Pháp. Cả thành phố Cảng của miền Bắc dường như chỉ có một nhóm văn nghệ duy nhất đó thôi. Người trưởng thành nhất là họa sĩ Trọng Thường, anh đã từng tham gia trong một vài đoàn văn công kháng chiến rồi trở về “thành”, hồi ấy người ta gọi là “dinh tê”. Nhóm văn nghệ gồm khoảng chừng trên 10 người, những ca sĩ “hạng nhất” vào thời đó như Ngọc Quang, Tường Vi và những ca nhạc sĩ mới ra lò như Hoài An, Huyền Linh, Phó Quốc Thăng, Thu Huyền, Lương Thảo, Trần Hải… Sở dĩ tôi được gia nhập nhóm này vào cái tuổi 19-20 vì thỉnh thoảng đi chơi với Lương Thảo, Trần Hải và cũng đã có vài bài viết lách trên mấy tờ báo ở tận Hà Nội như Cải Tạo, Tia Sáng. Thời đó, Hải Phòng chưa hề có một tờ báo nào.

Vì thế nhóm văn nghệ “tài tử” này được dư luận chú ý. Khoảng giữa năm 1952, chúng tôi chuẩn bị tổ chức một buổi trình diễn thi ca nhạc kịch tại nhà hát lớn thành phố. Một tờ chương trình được in rất xôm, bài thơ của tôi đã “được đăng” trên nhật báo Tia Sáng cũng xuất hiện trên trang 2 của tờ chương trình này.

Trước buổi trình diễn thi ca nhạc kịch chừng một tuần lễ, anh Ðoàn Chuẩn đến thăm. Trụ sở của chúng tôi là căn nhà ngoài của anh em ca sĩ Ngọc Quang, trên con đường nhỏ gọi là Ngõ Nghè. Anh Ðoàn Chuẩn lúc đó đã đạo mạo lắm rồi. Dáng người khỏe mạnh, bảnh bao nhưng rất hiền lành. Anh hỏi thăm về đêm trình diễn và dĩ nhiên anh Trọng Thường không bỏ qua dịp may mời anh Ðoàn Chuẩn trình diễn một bản guitare Hawaiennne vốn là thứ đàn mà anh Ðoàn Chuẩn rất thành thạo. Anh nhã nhặn từ chối lấy cớ bận đi Hà Nội. Anh chỉ hứa sẵn sàng cho mượn một cái magnétophone để thu lại toàn bộ chương trình hôm đó. Vào thời này có được cái máy như thế không phải là chuyện nhỏ. Không những phải là con nhà giàu mà con phải là tay biết chơi mới gửi mua thứ này tận bên Tây. Nhưng rồi đến đêm trình diễn, chuyên viên thu thanh đã làm cháy cái máy ghi âm đó của anh.
Công tử của thành phố Cảng

Cũng vì chuyện này mà sau đó vài tuần tôi còn được gặp lại anh Ðoàn Chuẩn. Anh hỏi thăm anh Trọng Thường để lấy lại chiếc magnétophone. Anh Ðoàn Chuẩn cho tôi leo lên chiếc xe hơi, đó là chiếc xe Buick kềnh càng, láng coóng. Hồi đó cả miền Bắc chỉ có hai chiếc xe Buick nên anh Ðoàn Chuẩn rất tự hào về điều này. Nếu không có vụ này chắc chẳng bao giờ tôi được ngồi trên chiếc xe đó. Tôi đưa anh đến nhà anh Trọng Thường ở phố Cầu Ðất lấy lại chiếc máy dù nó đã bị cháy. Anh nhận lại máy mà không hề phàn nàn một tiếng. Tôi lo ngại theo dõi từng thái độ của anh và tôi lễ phép nói: “Cả nhóm lo lắm, anh Trọng Thường rất ân hận, phải trốn anh đấy. Không biết lấy gì mà đền anh đây”. Anh lắc đầu: “Anh sẽ gửi đi sửa, có ai muốn làm cháy đâu.” Tôi kính phục cử chỉ đó của anh.

Hồi đó anh được tiếng là công tử thành phố cảng. Một thành phố có hoa phượng đỏ trên cao, có lá me bay vàng đường và có những tàn lá bàng che rợp những mái hiên, nhưng không có những hàng sấu như Hà Nội. Gia đình anh nổi tiếng, hầu như khắp thành phố này không ai không biết tên. Hãng nước mắm Vạn Vân không chỉ nổi tiếng ở Việt Nam mà là ở cả Ðông Dương. (Người ta thường truyền tụng “cốm Vòng, cà Báng, húng Láng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân).

Cửa hàng nhà anh gồm bốn năm gian rộng trên đường vào Chợ Sắt. Thỉnh thoảng có dịp đi qua trước nhà anh tôi thường lén nhìn vào, cũng chẳng biết để làm gì.

Trong óc tưởng tượng của tôi, đôi khi tôi nghĩ đến một ngày nào đó sẽ được thấy chị Ðoàn Chuẩn. Qua những bản nhạc của anh, qua cung cách sống của anh, tôi hình dung ra một thiếu phụ rất hiền rất đẹp, da trắng như trứng gà bóc, vận chiếc áo dài bằng nhung xanh (màu xanh vốn là màu của Ðoàn Chuẩn), cổ đeo chiếc kiềng vàng, chân đi đôi hài thêu, đầu vấn tóc trần, có đôi mắt bồ câu đen lánh… Nhưng quả là tôi chưa thấy bao giờ, cho nên đến nay hình ảnh ấy vẫn còn nguyên vẹn trong tôi.

Sau năm 1954, anh ở lại miền Bắc, tôi ở miền Nam. Tôi có nhiều dịp để tìm hiểu về anh và những nghệ sĩ còn ở lại miền Bắc. Nhưng về anh thì tuyệt vô âm tín. Những nghệ sĩ như Văn Cao, Tô Vũ còn thấy sáng tác, còn tham gia hoạt động ở một số cơ quan. Song Ðoàn Chuẩn thì vẫn yên lặng. Thỉnh thoảng nghe lại những bản nhạc của anh, tôi thực sự thấy lòng nao nao. Gửi gió cho mây ngàn bay, Thu quyến rũ, Tà áo xanh, Tình nghệ sĩ… đều là những tác phẩm bất hủ. Những phòng trà ca nhạc, vũ trường thời đó hầu như đêm nào người ta cũng được nghe những bản nhạc Ðoàn Chuẩn, lên ngôi nhất là Thu quyến rũ do Ánh Tuyết hát (Ánh Tuyết xưa chứ không phải Ánh Tuyết ngày nay tại Sài Gòn, không phải Ánh Tuyết trong CD nhạc mà tôi vừa nghe vừa viết bài này).

Tôi phát biểu ở đây một nhận định rất riêng tư, một so sánh đầy cảm tính. Nếu nhạc của cố nhạc sĩ Văn Cao thanh cao, lời lẽ rất văn hoa, bay như cánh chim trong khung trời hoa thơm cỏ lạ đến tận Thiên Thai thì nhạc của cố nhạc sĩ Ðoàn Chuẩn lời lẽ bình dị, không bay bổng nhưng thấm sâu, rất sâu, hầu như bài nào cũng là nỗi nuối tiếc, đau đớn của con người thật đang sống. Có cảm tưởng như nỗi đau ở trước mặt, có thể sờ thấy, có thể cảm nhận rất rõ, nó quanh quẩn đâu đó như một phần cơ thể của chính mình. Nó gần gụi với người nghe lắm, như một lời tâm tình giản dị mang xuyên suốt một tình yêu tuyệt vọng với hình bóng thân thuộc của quá khứ đã… tàn rồi nhưng không bao giờ phai. Những bản nhạc của anh thường ký tên chung với một người bạn thân là Từ Linh, có người nói Ðoàn Chuẩn chỉ ký tên chứ Từ Linh không làm nhạc, nhưng có người bạn tôi là anh em kết nghĩa với Từ Linh lại cam đoan rằng đã từng thấy Từ Linh làm nhạc. Nhưng Từ Linh không xuất hiện bao giờ nên Từ Linh như một “ẩn số” với nhiều thính giả. Theo tin tức tôi có thì Từ Linh đã mất vào khoảng năm 1987 vì bệnh ung thư.
Những bí mật về bài ca được công bố cuối cùng

Ngòai những bản nhạc tôi đã nghe đi nghe lại không biết bao nhiêu lần, tôi thật sự kinh ngạc khi nghe bài Vĩnh Biệt trong CD “Gửi gió cho mây ngàn bay” do nữ ca sĩ Ánh Tuyết hát, Trung tâm băng nhạc Trẻ thực hiện, Bảo Chấn hòa âm. Thoạt tiên mở đầu bản nhạc, nghe như có tiếng trống thúc đâu đây, cứ ngỡ là bài hùng ca. Và ngay câu đầu tiên người ta đã nghe thấy lời ai oán của một “chiến tướng” đứng trước một thành quách bị tàn phá dưới tay quân địch: “Ai đốât Cô Tô thành vì đôi mắt giai nhân hề, lửa cháy báo tin rằng thành quách ta… Ai trót nhấp men tình để Mỵ Cơ thương nhớ, khi khóc rồi Tiễu Nhiên còn mơ…” “Em khác gì Quỳnh Giao, lúc cam lòng phung phí hết xuân xanh, lúc đêm về, thương cho đời mà cũng ghét cho đời mà cũng chán cho đời…” Tâm tình Tiễu Nhiên – Mỵ Cơ, Phạm Lãi – Tây Thi phải chăng chính là tâm trạng tác giả: Thương, ghét và chán chường? Nỗi niềm u ẩn cho cuộc tình và cho cuộc đời mình. Bài ca Vĩnh biệt còn được gọi là “Bài ca bị xé”. (Tôi được biết ở hải ngoại bài này còn được đặt tên là Vàng phai mấy lá). Và bài ca cho đến mãi sau này mới được phổ biến. Tại sao vậy? Ðây là một bí mật riêng tư của tác giả. Nhưng nay anh đã thành người quá cố, những người yêu nhạc của anh thì chắc nhiều người muốn biết. Có người cho rằng bài này được làm từ năm 1955, đó là kết quả của một mối tình tuyệt vọng giữa Ðoàn Chuẩn và một danh ca thời xưa, nay còn sống ở Sài Gòn.. Có nghĩa là tác giả yêu nhưng không bao giờ được yêu lại. Bởi thế nên bài ca bị xé.

Nhưng tôi đã đem ý kiến này hỏi nhạc sĩ Lê Hoàng Long, một người bạn của anh Ðoàn Chuẩn và một vài người khác. Có người cho rằng đó là kết quả của một mối tình nồng nàn say đắm. Hồi đó anh Ðoàn Chuẩn ở Hải Phòng yêu một nữ danh ca ở Sài Gòn. Anh đã yêu cầu một hàng bán hoa ở đường Catinat, mỗi ngày đưa đến tặng nữ ca sĩ một bó hoa tươi nhưng không ghi tên người gửi. Nữ ca sĩ này không nhận và đòi phải cho biết tên. Ðoàn Chuẩn hứa là sẽ cho biết tên sau nửa tháng. Và nửa tháng sau đó Ðoàn Chuẩn đã tiết lộ tên người gửi hoa. Trong hoàn cảnh như thế ai cầm lòng cho đậu. Mối tình bắt đầu. Nhưng tiếc rằng cả hai người đều đã có gia đình nên một thời gian sau mối tình tan vỡ. Bài ca cũng đã nói lên sự “đàn trùng dây, phím lỡ”.

Bài ca không được phổ biến và bị xé vì mang nỗi đau thương như không thể nói thành lời, như một sự dỗi hờn với định mệnh. Nhưng tất cả chỉ là dự đoán. Sự thật như thế nào chỉ có ông mới biết và những người yêu nhạc Ðoàn Chuẩn bây giờ coi như một giai thoại đẹp và buồn khi vĩnh viễn chia tay với người nghệ sĩ tài hoa, người mãi mãi là một công tử, một nghệ sĩ tài tử đúng nghĩa nhất đối với tôi.



Một bài thơ của Ðoàn Chuẩn:

Khi tôi vừa viết xong bài này, nhạc sĩ Lê Hoàng Long có đưa cho tôi một bức ảnh của anh Ðoàn Chuẩn và phía sau bức ảnh có hàng chữ ghi:

“Long, Tao mời mày chén rượu đầu xuân con Rắn, và ngâm:

Em ơi! Lá có rơi ngoài muôn ngả

Thì chung quy cũng chỉ vì đất thân yêu.

Anh phong sương, mưa nắng đã hoen nhiều

Ðời nhạc sĩ có gì vui đâu em hỡi!

Anh ra đi em cũng đừng chờ đợi

Mai anh về kia nữa hoặc… chẳng bao giờ”.


30-1-1989”

Xin được gửi đến bạn đọc gọi là chút kỷ niệm của “người xưa”

Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011

ĐI VÀO CÕI THƠ TUỆ SĨ- Bùi Giáng


ÐI VÀO CÕI THƠ TUỆ SĨ
Văn Học và Nghệ Thuật - Văn Thơ Phật Giáo
Viết bởi Bùi Giáng

Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u.... Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông :

Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi

Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết :

Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty

Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.

Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Ở Một bài thơ "Không đề" của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ :

Ðôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn

Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Ðếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn

Tôi hoảng vía đề nghị : Ðại Sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho, Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.

Ông đáp : - Ðể về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.

Ðôi mắt ướt tuổi vàng
Cung trời
Hội cũ

Xin xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì ? - Cung trời hội cũ.

Một hội đạp thanh ? Một hội nao nức ? - "Giờ nao nức của một thời trẻ dại ?".

Ðôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ...

Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Ðầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát : một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh.... Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại.

Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi người đều "phải nói" với mọi người "muốn nghe" với riêng mình "không thiết chi chuyện nói".

Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói tất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay chẳng nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng phi giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả (par manque de justice interne).

Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo.

Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du :

"Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (... ...). Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế ?".

Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch !

Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn chưa cứ thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác.

Ðáp : Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.

Ðôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ

Ðôi mắt ướt ? Ðôi mắt của ai ? Vì sao ướt ? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh ?

Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ.

Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng ?

"Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang"

Áo nào màu xanh ? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối ?

Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng trở về Sài Gòn tới chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây.

Ðôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ.
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn

Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ ?

Mình là thân Bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ ? Dám gác bỏ kệ kinh ? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn ?

Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẩm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan

Ta tưởng như nghe ra "cao cách điệu" bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzche.

Thy nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn ? Ngồi trên một đỉnh đá ? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải ?

Ðỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Ðỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Ðó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa tuết nguyệt phiêu du :

Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

Một tiếng "buồn chăng" lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tâm thanh đoạn trường :

Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Ðếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi :
Ðếm tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Ðủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Ði
Quanh

Tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ ? Một tuổi xuân chưa vừa ? Một tuổi vàng sớm chấm dứt ? Một tuổi "đá" sớm từ giã mọi yêu thương ?

Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn

Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đềm lữ thư khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.

Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Ðường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương./.

Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2011

Phạm Công Thiện- Phan Tấn Hải


Nghĩ Về Nhà Thơ Phạm Công Thiện
Phan Tấn Hải
Nhà thơ, nhà tư tưởng, giáo sư Phạm Công Thiện, Pháp Danh Nguyên Tánh, vừa từ giã cõi thế vào ngày 8 tháng 3 năm 2011 tại Thành Phố Houston, Texas, Hoa Kỳ.
Làm thế nào để hình dung về Phạm Công Thiện? Một lần tôi đã tự hỏi mình như thế. Và ngay lập tức trước mắt tôi hiện ra một cặp kính cận dày cộm và chòm tóc trắng phất phơ... Có lẽ, nếu vẽ vài nét trên giấy kiểu tốc hoạ thì thế như dường là đủ. Không, chưa đủ. Vậy thì nghe thêm giọng nói Nam bộ đặc biệt của anh. Hay là thêm khuôn mặt tròn, và đôi mắt thơ ngây...
Nhưng tận cùng, Phạm Công Thiện là một nhà thơ và là một thiền sư – và đó là những phẩm chất rất khó hình dung, vì mỗi nhà thơ và mỗi thiền sư đều có những độc đáo riêng. Và tôi tin rằng, khi nào thân xác anh rời khỏi thế giới đời thường này, rất nhiều người sẽ gọi Phạm Công Thiện là một vị Bồ tát, một danh hiệu tôn quý trong Phật giáo và là một hạnh nguyện để chỉ một người tái sinh từ kiếp này sang kiếp khác để giúp cho mọi người hiểu được thật nghĩa của vũ trụ. Trong những năm qua, rất nhiều tăng ni Phật tử đã gọi nhà thơ Bùi Giáng là một vị Bồ tát, và tôi tin là sau này, Phạm Công Thiện cũng sẽ được tôn vinh như thế, bất chấp những đời thường bất toàn mà chúng ta đôi khi gặp nơi anh.
Thực sự, tôi đã nhìn anh như một vị Bồ tát từ những ngày tôi mới lớn, và ngay khi lần đầu đọc cuốn Ý thức mới trong văn nghệ và triết học. Lúc đó, tôi đang học lớp đệ tứ, hay đệ tam ở Chu Văn An, Sài Gòn. Bây giờ gọi là lớp 9 hay lớp 10. Đâu đó, khoảng giữa thập niên 1960. Dù là đọc ngấu nghiến, nhưng một ngày không đủ, và đọc một tuần cũng không đủ. Vì có những dòng tôi phải đọc đi đọc lại, không hoàn toàn vì tính bí hiểm triết lý, mà chỉ vì tính thơ mộng dị thường trong ngòi bút của anh. “Đi cho hết những đêm hoang vu trên mặt đất...” Thế đấy, tôi đã đi như thế từ bốn thập niên trước trên các trang sách của anh.
Tôi đã ngồi ở sân Chùa Xá Lợi, dưới các tàng cây ngọc lan và bông sứ lần giở từng trang sách đó. Và rồi lại ngồi trong một quán cà phê cách trường Chu Văn An vài mươi bước, ngay lối vào ký túc xá Minh Mạng của các anh chị sinh viên lớn. Không phải chuyện ngồi đọc cho ra vẻ triết gia, mà thực sự vì có những đoạn văn trong cuốn Ý thức mới làm tôi run rẩy cả người. Từng trang một, giữa các dòng chữ của Phạm Công Thiện toát ra một hơi lạnh của vũ trụ vô cùng vô tận. Và tuy là văn xuôi, hầu hết, nhưng thi tính vẫn dày đặc kinh ngạc.
Lúc đó, tôi chưa từng gặp anh, nhưng lại có cảm giác Phạm Công Thiện phải là một cái gì có màu xanh, phải liên hệ tới màu xanh, thí dụ xanh da trời hay xanh lá cây. Không biết tại sao, nhưng trong trí óc tôi lúc đó, là một thiếu niên say mê đọc sách và cứ nghĩ tới triết gia Phạm Công Thiện là thấy hiện lên một màu xanh. Phải màu xanh mới lạnh chứ. Vì từng trang Ý thức mới đều mang theo hơi lạnh đó. Trong đó, có hơi lạnh Đà Lạt, có sương mù Paris, có ngồi thiền trên đồi vắng, có chất vấn về triết lý với cái búa của Nietzsche, với hiện sinh Camus, và vân vân, và vân vân. Đủ thứ mà bây giờ tôi không thể nhớ hết. Cứ mở trang sách ra, là hơi lạnh của vũ trụ vô cùng vô tận lại toát ra từ các dòng chữ của anh. Bất kể lúc đó, tôi đang ngồi trong sân chùa Xá Lợi, hay vài tuần sau nữa tới la cà tại các quán cà phê trên đường Nguyễn Thiện Thuật, nơi đó có khi tôi ngồi ở quán cà phê Bình Minh và có khi bước sang kế cận ngồi ở quán Hoàng Hôn, và nơi đó cứ mỗi chiều trở về đêm là đèn đường hắt xuống màu vàng mờ nhạt làm tôi cứ ngỡ mình đang ngồi giữa Paris đọc sách.
Mới biết, văn chương mạnh như thế. Sau này, nhiều thập niên sau, khoảng đầu thập niên 1990, được cơ duyên gặp nhà thơ Phạm Công Thiện tại Quận Cam, California, tôi ngạc nhiên không hiểu vì sao thời mới lớn mình lại cứ hình dung anh ra một màu xanh. Nhớ lại mới ngạc nhiên. Đúng ra, nếu phải liên kết với màu sắc, nơi anh phải là một màu trắng. Tóc trắng một chòm, kính trắng dày cộm, đôi mắt cực kỳ ngây thơ, khuôn mặt bầu, lại thường mặc áo trắng hay màu sáng. Và toàn thân Phạm Công Thiện toát ra cả một màu trắng hồn nhiên, thơ ngây. Nhưng tới tuổi trung niên rồi, tôi không còn bận tâm chuyện màu sắc nữa, dù là người hay chữ, hay mực, hay giấy. Thêm nữa, khi đọc lại anh, tôi không còn nhiều rung động mạnh mẽ như thời mới lớn, dù là lòng tôn kính anh vẫn không mờ nhạt trong tôi.
Nếu phải giải thích, có lẽ cảm giác màu trắng sau này nhiều phần tôi có cũng từ một bài thơ của Phạm Công Thiện được nhạc sĩ Lê Uyên Phương phổ nhạc. Trong bài thơ, tôi nhớ có những câu dị thường như:

... Mười năm qua gió thổi đồi tây
Tôi long đong theo bóng chim gầy
Một sớm em về ru giấc ngủ
Bông trời bay trắng cả rừng cây...
Và nhớ nhất là mấy chữ:
... Tôi đứng trên đồi mây trổ bông...

Thực sự, gọi Phạm Công Thiện bằng “anh” là điều không phải lẽ đối với tôi, trên nguyên tắc. Vì tôi đã từng trực tiếp nghe nhiều vị danh tăng gọi Phạm Công Thiện bằng danh xưng “thầy” rất là tôn kính, trong những vị gọi như thế có những thượng toạ hiện là tác giả và dịch giả nhiều sách về Phật học. Dễ hiểu, Phạm Công Thiện đã từng dạy ở Đại học Vạn Hạnh, nơi đào tạo nhiều thế hệ tăng ni và trí thức Phật giáo.
Đứng về mặt đời thường, lý ra tôi cũng phải gọi anh là thầy. Vì thực tế, Phạm Công Thiện còn là thầy của vợ tôi – nàng kể lại rằng trong thập niên 1980 vẫn thường mỗi tuần sang Chùa Liên Hoa, trên đường Bixby, thị xã Garden Grove, Quận Cam, để nghe thầy Thiện giảng Kinh Kim Cang.
“Không hiểu gì cả, nhưng ông Phạm Công Thiện dạy hay hơn mấy thầy khác nhiều, kể cả mấy thầy ở Đại học Vạn Hạnh hồi xưa.” Đó là lời nàng kể, khi còn nhắc là năm 1974, nàng đã từng học miệt mài ở Đại học Vạn Hạnh...
Tại sao không hiểu gì hết, mà lại thấy hay? Tôi nghĩ, chỉ có Kinh Phật và thơ mới thế thôi.
Như thế, đúng ra tôi phải gọi nhà thơ Phạm Công Thiện bằng thầy. Nhưng cơ duyên lại là, lòng anh Thiện rất mực thoải mái, không nghi lễ. Và tôi lại là bạn thân của các nhà thơ Lê Giang Trần, Phạm Việt Cường... những người thân tình và thường uống rượu với anh. Nói là uống rượu nghe có vẻ trần gian lắm, nhưng phải nhìn thấy Phạm Công Thiện mới thấy là hoàn toàn không có gì gọi là trần gian nữa. Tất cả thế gian quanh anh đều thoạt hiện ra như thơ, như văn, như nhạc, như hoạ... Và cả đôi khi tôi ghé nhà Lê Giang Trần ở trong một khu mobile home chật chội, u tối, tại Santa Ana và gặp anh Phạm Công Thiện đang ngồi trong nhà Trần với chai rượu trên bàn. Tất cả thế gian đều như mộng, như huyễn, như sương rơi, như điện chớp... Sự hiện diện của anh Phạm Công Thiện như dường để nhắc tới tính vô thường đó.
Khi tôi tới Quận Cam năm 1990, anh Phạm Công Thiện đã tạm ngưng các lớp Phật học ở Chùa Liên Hoa mấy năm rồi, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn cơ may gặp nhà thơ dị thường này. Và nếu sau này có ai muốn biết về các chuyện đời thường của Phạm Công Thiện, tôi nghĩ rằng nhà thơ Lê Giang Trần có thể kể lại trên cả ngàn trang sách, vì cứ hễ anh Thiện về Quận Cam thì chỉ nghe về ở nhà Lê Giang Trần, một nhà thơ cũng thơ mộng lạ lùng và dị thường. Còn thì, khi nghe tin anh đi Úc, khi nghe nói anh lên ngụ ở chùa Diệu Pháp ở Los Angeles, và khi thì nghe đủ thứ địa danh trên địa cầu. Nói thế, không có nghĩa Trần là bạn đời thường của anh Thiện. Thực sự, nhà thơ Lê Giang Trần nhìn nhà thơ Phạm Công Thiện như một vị Bồ tát. Một hoá thân, không thể khác hơn được, trong mắt của Trần.
Người ta không thể hình dung hết những tôn kính mà nhiều người dành cho Phạm Công Thiện. Bất kể là anh đã từng sống rất đời thường, hệt như bao nhiêu người khác giữa phố chợ trần gian. Bất kể là anh cũng viết báo lung tung, cũng một thời tranh luận từ trước 1975 tại Sài Gòn, và rồi lại viết báo tranh luận tại Los Angeles thời 1980 sau này. Và bất kể là anh uống rượu cũng tưng bừng, cũng mấy lần vợ con, cũng thích hút thuốc lá, cũng nhiều thứ rất trần gian... Nên thấy, trong những người tôn kính Phạm Công Thiện có nhiều vị sư, có nhiều nhà thơ, và tôi tin là không thể đếm hết.
Không phải những người đó tôn kính Phạm Công Thiện chỉ vì anh từng là giáo sư Đại học Vạn Hạnh (nơi này có cả trăm giáo sư chứ), hay vì anh làm thơ hay (trước và sau anh cũng có nhiều nhà thơ xuất sắc chứ), hay vì anh đã hùng biện để bảo vệ Phật giáo (đâu có mấy ai nhớ anh đã gây lộn với ai, và về đề tài gì), hay vì anh có thể vừa mới rời một quán nhậu nơi đường Westminster là bước vào ngôi chùa đường Bixby giảng Kinh Kim Cang mà vẫn dạy hay hơn tất cả các ông sư trên đời này (có thể, nhưng chi tiết này cần phải kiểm chứng, vì các vị giảng sư chưa chắc đã đồng ý là có ai giảng Kinh này hay hơn họ), hay vì anh mỗi lần vào thư viện Mỹ là mượn ra cùng một lúc 30 cuốn về đọc tốc độ còn mau hơn các thiếu niên Sài Gòn đọc truyện võ hiệp Kim Dung (tôi tin có người còn đọc nhanh hơn), và vân vân...
Có thể vì vai trò của Phạm Công Thiện trong sự phát triển Phật giáo cũng lớn lao? Thực ra, có nhiều vị đã đóng góp cho Phật giáo nhiều hơn anh nhiều. Thí dụ, như cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, HT Minh Châu, HT Trí Thủ, HT Thanh Từ, HT Nhất Hạnh, TT Tuệ Sỹ, GS Lê Mạnh Thát... Thực sự, Phạm Công Thiện không viết nhiều về Phật giáo.
Còn nói về các chức vụ chính thức thì Phạm Công Thiện cũng không hơn nhiều vị khác, dù anh từng là “nguyên Giáo sư Triết học Tây phương Viện Đại học Toulouse, Pháp quốc, nguyên Giáo sư Phật giáo Viện College of Buddhist Studies, Los Angeles, Hoa Kỳ, nguyên Giám đốc soạn thảo tất cả chương trình giảng dạy cho tất cả phân khoa Viện Đại học Vạn Hạnh từ năm 1966-1968, nguyên khoa trưởng phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của Viện Đại học Vạn Hạnh từ năm 1968-1970, sáng lập viên và nguyên chủ trương biên tập tạp chí Tư tưởng của Viện Đại học Vạn Hạnh, 1966-1970” (theo phần chú thích trong bài “Hai vị thiền sư,” Phạm Công Thiện viết tại California ngày 18.10.1988 về TT Tuệ Sỹ và TT Trí Siêu, vị sau này thường dùng tên là GS Lê Mạnh Thát. Báo Nguồn sống số 16-17, 1989, San Jose, California).
Vậy mà, cũng như nhà thơ Lê Giang Trần nói trên, tôi tin Phạm Công Thiện phải là một kiểu hoá thân Bồ tát. Nếu Tây Tạng có các hoá thân Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma, Karmapa, Rinpoche, vân vân... thì Việt Nam mình ngay trong thời này cũng có các hoá thân Bồ tát như các nhà thơ Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện... Bạn không tin? Hãy hỏi các vị sư Sài Gòn ở thế hệ trung niên trở lên, như dường cũng có nhiều vị sư chia sẻ niềm tin như thế.
Còn nói theo kiểu bây giờ, thì Phạm Công Thiện đã xuất hiện trong Phật giáo một cách “rất là ấn tượng.” Chuyện Phạm Công Thiện trở thành nhà sư Thích Nguyên Tánh thì cũng có nhiều người biết, và vẫn được truyền tụng hoài. Nhưng nơi đây, để nghe tận nguồn, chúng ta hãy nghe nhà thơ Quách Tấn kể lại, trong “Hồi ký về thượng toạ Thích Trí Thủ” (http://www.phatviet.com/vanhoc/vh008.htm), khi giới thiệu anh Thiện với thượng toạ Trí Thủ (lúc giữ chức Giám viện Phật học Viện Hải Đức, nơi thi sĩ Quách Tấn dạy các tăng ni môn quốc văn), trích:
Khoảng đầu năm 1964, Phạm Công Thiện bị khủng hoảng tinh thần, ở Mỹ Tho ra Nha Trang an dưỡng. Lên chơi chùa Hải Đức, Thiện ước được sống trong cảnh u tịch trong ít lâu để lấy lại sức khỏe. Tôi liền đến xin thượng toạ, và tỏ thật rằng Thiện là một thiên tài và là người Cơ Đốc giáo, mọi người trong chùa tỏ ý không bằng lòng. Thượng toạ cười:
“Không hề gì, có bác Quách bảo đảm.”
Nhưng để “đề phòng”, thượng toạ cho dọn một căn phòng dưới xưởng làm hương để Thiện ở, trưa chiều lên chùa ăn cơm.
Được nơi ăn chốn ở vừa ý, Thiện bảo tôi:
“Để đền ơn ông, tôi xin hẹn trong sáu tháng sẽ đọc và hiểu được kinh chữ Hán.”
Tôi không dám tin, nhưng cũng không dám ngờ.
Ở Trại Thuỷ, cả ngày Thiện nằm đọc sách. Thỉnh thoảng tôi đến thăm Thiện và thượng toạ Trí Thủ. Một hôm thượng toạ bảo tôi:
“Anh chàng có đạo tâm.”
Tôi cười thầm trong bụng: “Đạo Thiên Chúa hay đạo Phật.”
Ba tháng sau, tôi lên Hải Đức, không thấy Thiện nơi xưởng hương. Hỏi người làm hương trong xưởng cho biết rằng thượng toạ Trí Thủ đem anh lên ở nơi cốc của thượng toạ hơn một tháng rồi.
Tôi bèn leo dốc lên cốc: một nhà sư trẻ đang ngồi xếp bằng ngay ngắn, mắt lim dim trên chiếc ghế dài nơi cốc. Nhìn kỹ thì là Phạm Công Thiện! Rõ là một nhà sư 100 phần trăm. Thiện ngồi yên, tôi lẳng lặng đi vào cốc. Thượng toạ Trí Thủ mừng rỡ, muốn gọi Thiện. Tôi “xin đừng”. Sau mấy câu hàn ôn như thường lệ, thượng toạ nói:
“Thiện quy y với tôi rồi, tôi đặt cho pháp danh là Nguyên Tánh."
Tôi không tỏ ý tán thành cũng không tỏ ý phản đối. Đối với Thiện quy y cũng thế mà không quy y vẫn thế.
Mấy tháng sau – tháng 9 năm 1964. Tôi lên Hải Đức một lần nữa. Cốc đóng — người trong chùa cho biết thượng toạ cùng Thiện vào Sài Gòn, còn lâu mới về. Tôi cảm thấy bùi ngùi như nhớ nhung, như thương tiếc.
Tôi ngẫu chiếm một tuyệt:
Lịu địu
Áo giũ ngày sương gió
Lên chùa thăm cố nhân
Non nghiêng thềm nắng xế
Lịu địu bóng nhàn vân.
Sau nghe tin Thiện dạy học ở Đại học Vạn Hạnh, rồi đi Mỹ, đi Pháp. Còn thượng toạ Thích Trí Thủ thì trụ trì chùa Già Lam, rồi được phong hoà thượng, thỉnh thoảng mới về Nha Trang thăm chùa cũ và nghỉ ngơi. Thiện thì từ ngày từ giã Nha Trang, tôi không còn gặp lại...”
Bây giờ Phạm Công Thiện không viết nhiều như ngày xưa nữa. Những cuốn sách gần đây đa số là viết về Phật A Di Đà và Bồ tát Quan Thế Âm. Từ lâu, anh cũng không làm thơ nhiều nữa. Những tác phẩm thời trẻ của anh, khoảng hơn hai mươi cuốn, còn được quần chúng nhớ đặc biệt là vài cuốn, như: Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư Thiền tông (1964), Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (1965), Ngày sanh của rắn (1967)... Cuốn được nhớ tên nhất tại hải ngoại của Phạm Công Thiện, có lẽ là cuốn Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất (1988)...
Nhưng đêm hoang vu của anh vẫn chưa hết, cho nên vẫn thấy anh đi liên tục. Để theo dõi bước đi một đoạn đời của anh, hãy trích một chút sau đây từ cuốn Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng của Phạm Công Thiện, xuất bản 1994 tại Los Angeles, từ Lời nói đầu:
“Quyển sách này được viết chậm rãi thong dong từ trên 10 năm nay, từ năm 1983 tại Los Angeles và tại những vùng phụ cận Los Angeles, California, Hoa Kỳ. Từ năm 1970 cho đến 1983, tôi đã sống ở Do Thái, rồi ở Đức quốc và ở lâu dài tại Pháp quốc; đến năm 1983, qua một cơn chuyển động toàn diện của tâm thức viễn ly, tôi đã trở lại Hoa Kỳ, trở lại thành phố Los Angeles sau một thời gian xa vắng gần 20 năm; từ năm 1983 cho đến năm 1994, trên 11 năm nay, lại qua nhiều cơn chuyển động toàn diện liên tục của tâm thức viễn ly, tôi vẫn tiếp tục sống ở thành phố Los Angeles; sau vài chuyến lui về vùng đồi núi im lặng ở Úc châu, tôi vẫn trở lại thành phố Los Angeles như trở về tập sống hồn nhiên tự tại với những cơn động đất thường xuyên của đời mình...”
Bây giờ Phạm Công Thiện vẫn còn đi. Và đôi khi vẫn còn viết – như một nghiệp tiền định của anh.
Nếu bạn nhớ rằng Phạm Công Thiện sinh năm 1941 thì mới kinh ngạc, khi biết rằng anh in cuốn Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma năm 1964, nghĩa là khi mới 23 tuổi. Nơi đây, chúng ta không nói chuyện cuốn sách anh viết đã có giúp gì cho ai về mặt giác ngộ hay không (chuyện này, khó có thước đo), nhưng chỉ nói về đề tài để khảo sát, suy nghĩ và viết xuống thì đã là một điều hết sức dị thường. Tôi từng đọc rằng khi anh còn ở tuổi vị thành niên, anh đã soạn một cuốn Tự điển Anh ngữ tinh âm, nhưng vì tôi chưa bao giờ đọc cuốn này cho nên không dám bàn. Nhưng ở tuổi 23, mà anh viết sách Thiền tông thì phải có một tâm hồn rất mực thơ mộng, một khát khao trí tuệ rất mực mãnh liệt, dù là, đối với Thiền tông, đúng hay sai và mê hay ngộ cũng là chuyện rất mực khó dò...
Nhưng vì sao một người đời thường lại được cả các tăng ni tôn kính? Mà người đời thường này, anh Phạm Công Thiện, lại không hề biết cách kiếm tiền... Tôi nghĩ, nhiều phần là trong các kiếp trước, Phạm Công Thiện đã từng là thầy, từng là bậc tôn túc của các vị tăng ni kia, và của nhiều cư sĩ đời thường như tôi...
Và tôi tin rằng, khi Thiền sư Thi sĩ Phạm Công Thiện từ trần, chắc chắn sẽ có rất nhiều người gọi anh là Bồ tát, một danh hiệu rất mực tôn kính trong nhà Phật, chỉ đứng sau danh hiệu Đức Phật. Tại sao như thế? Tôi không thể trả lời chính xác. Nhưng nhà thơ Bùi Giáng đã được tôn xưng là Bồ tát, và tôi tin, chắc chắn rằng Phạm Công Thiện cũng sẽ được tôn xưng như thế. Thêm nữa, Kinh Pháp Hoa cũng viết rằng tất cả mọi người đều là Phật – và bây giờ nhiều người trong chúng ta đã quen thuộc với cách Phật giáo Tây Tạng gọi ngài Đạt Lai Lạt Ma là Bồ tát Quan Thế Âm, gọi ngài Ban Thiền Lạt Ma là Phật A Di Đà hoá thân...
Để trả lời cho bớt vẻ thần bí hơn, có lẽ nên nói rằng nhà thơ Phạm Công Thiện đã đánh thức được nơi rất nhiều người niềm say đắm với cuộc đời. Bất kể là nhân loại thường trực đối diện với biết bao nhiêu là hố thẳm và hoang vu, chính niềm say đắm này đã và đang dẫn chúng ta đi qua biết bao nhiêu là ngọn đồi mây trắng...