Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2011
Giai điệu và ca từ mỹ cảm về mẹ- Lê Quang Kết
Mùa Vu Lan Phật lịch 2555 (2011)
“BÔNG HỒNG CÀI ÁO”- GIAI ĐIỆU VÀ CA TỪ MỸ CẢM VỀ MẸ
Lê Quang Kết
“Bông hồng cài áo” của nhạc sĩ quá cố Phạm Thế Mỹ lấy ý tưởng từ tùy bút cùng tên của Thiền sư Nhất Hạnh. Bài tùy bút ra đời từ năm 1962 Phật lịch 2507, khoảng một năm sau vào mùa Vu Lan 1963 đoàn áo lam chúng tôi được nghe đọc “Bông hồng cài áo” trong lần sinh hoạt sau thời công phu- lễ Phật ở chùa Thiên Minh, ngôi chùa đậm dấu ấn kỷ niệm của Thiền sư những ngày tu học ở Huế.
Giọng Huế trầm đầm ấm của chị huynh trưởng làm chúng tôi rưng rưng, nhiều chị em nữ khóc thút thít. Bài thơ ngũ ngôn sau lời mở- những dòng thơ khóc mẹ ngày mẹ ra đi mà những ai còn mẹ hay mất mẹ đều nghe lòng lo sợ…sợ đến một ngày kia: “Năm xưa tôi còn nhỏ/ Mẹ tôi đã qua đời/ Lần đầu tiên tôi hiểu/ Thân phận trẻ mồ côi/ Quanh tôi ai cũng khóc/ Im lặng tôi sầu thôi/ Để dòng nước mắt chảy/ Là bớt khổ đi rồi/ Hoàng hôn phủ lên mộ/ Chuông chùa nhẹ rơi rơi/ Tôi biết tôi mất mẹ/ Mất cả một bầu trời”. Cả một bầu trời yêu thương, cả một dòng suối dịu hiền, cả một mạch nguồn bao la như biển xanh ngọt ngào vỗ về con thơ giờ đây không còn nữa. Anh chị không còn trong vòng tay yêu thương của mẹ, anh chị sẽ nghe cõi lòng mình trống vắng và là thời khắc anh chị như chú chim non cánh mỏng bơ vơ lạc lối- bởi vì có mẹ là có đủ mọi thứ trên đời- mẹ là tất cả…
Giai điệu và ca từ nhẹ nhàng sâu lắng “Một bông hồng cho em/ Một bông hồng cho anh/ Và một bông hồng cho những ai/ Cho những ai/ đang còn Mẹ/ đang còn Mẹ/ để lòng vui sướng hơn…”. Tùy bút thầy Nhất Hạnh kể chuyện từ xứ Phù Tang- bước chân nhẹ trên phố xa- một nhóm sinh viên trẻ thầm thì to nhỏ với người đồng hành rồi cài lên ngực trái thầy một bông hồng trắng. Hỏi ra mới biết nếu ai còn mẹ thì sẽ nhận một nụ hồng. Một nụ hồng yêu thương- một nụ hồng tuyệt vời cao cả bởi một lẽ anh chị đang còn mẹ để lòng vui sướng hơn. Mùa báo hiếu năm nao chúng tôi đã lặng thầm thổn thức khi trong buổi lễ “Bông hồng cài áo”- trên ngực ai cũng điểm một nụ hồng còn oanh vũ Liên, Hạnh lại phải cài một nụ bạch hồng. Mẹ của em đã bị dòng nước lũ thịnh nộ cuốn trôi trong lần chèo ghe vớt củi trận lụt tháng bảy năm xưa…Khổ thân em biết mấy Liên, Hạnh ơi?! Ngày ấy xa rồi anh chị biết không?- trong ca dao mẹ, có cậu bé lớn khôn trong vòng tay mẹ cha êm ấm, chuyện nhà không may gặp cơn túng bấn phải tha hương mưu sinh, vật lộn giữa dòng đời cay nghiệt khi đó mới hiểu ra- công cha mẹ là biển trời: “Cơm cha cơm mẹ đã từng/ Con đi làm mướn kiếm lưng cơm người/ Cơm người khổ lắm mẹ ơi/ Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi vừa ăn”.
Tứ khổ: sinh lão bệnh tử- ai trên đời mà không chết? Chết là quy luật là lẽ thường của tự nhiên, cái chết không loại trừ bất cứ ai. Nhưng cái khổ lớn nhất của những đứa con trên đời là ngày mất mẹ. Mẹ ơi! Hai tiếng thiêng liêng đi suốt cả cuộc đời con những lúc- hỉ nộ ái ố sầu bi- khổ đau, buồn vui hay hạnh phúc. Ngôn ngữ nói và viết dường như bất lực phải cần thêm vỏ âm thanh giai điệu:“Rủi mai này Mẹ hiền có mất đi/ Như đóa hoa không mặt trời/ Như trẻ thơ không nụ cười/ ngỡ đời mình không lớn khôn thêm/ Như bầu trời thiếu ánh sao đêm…”. Còn mẹ sẽ là tình yêu thương tròn đầy viên mãn. Còn mẹ là diễm phúc lớn trên đời này của những đứa con. Hình như tôi đã đọc đâu đó một điều giản dị về mẹ: Anh chị lớn bao nhiêu tuổi, làm nên biết bao công trạng nhưng đứng trước mẹ anh chị cũng chỉ là đứa con bé nhỏ như ngày xưa mẹ yêu thương, nâng niu bú mớm dỗ dành…Xưa nay đông tây đều thế- con trẻ sẽ không lớn khôn thêm nếu thiếu vắng bàn tay nâng niu âu yếm của mẹ. Người lớn mà mất mẹ cũng thấy mình thiệt thòi trống rỗng không còn người lo toan cận kề che chở… Lời và nhạc như thúc giục nhắc nhở bao đứa con hãy làm một việc gì đó có ý nghĩa ngày mẹ còn trên trần thế. Mẹ mất như bông hoa thiếu ánh mặt trời, như đứa trẻ môi khô héo cằn già nua trước tuổi và bầu trời thiếu vắng ánh sao khuya cứ tối mò mù mịt như đêm ba mươi…
Bài hát đi vào điệp khúc : “Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền/ Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên/ Là bóng mát trên cao/ Là mắt sáng trăng sao/ Là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối/ Mẹ, Mẹ là lọn mía ngọt ngào/ Mẹ, Mẹ là nải chuối buồng cau/ Là tiếng dế đêm thâu/ Là nắng ấm nương dâu/ Là vốn liếng yêu thương cho cuộc đời…”. Có thể nói những mỹ từ đẹp nhất về mẹ được cất lên. Các anh chị hãy lắng nghe lời ngọt ngào từ mẹ.Tiếng ru ầu ơ bên vành nôi tuổi thơ; bàn tay mẹ sờ lên trán nóng khi con biếng ăn biếng quẫy; nước mắt mẹ sầu lo khi nghe tin con mình bất hạnh tai ương; chiều về dáng mẹ thẩn thờ ngồi trông con vời vợi nơi xứ lạ quê người- biết xuân này nó có về không?...Chao ôi! Lời nào để bày tỏ hết ân tình thăm thẳm công ơn sâu dày của mẹ. Hình như là thế -“Ngôn ngữ trần gian túi rách/ Đựng sao đầy hai tiếng mẹ ơi!”. Lời và nhạc điệp khúc không cần đến ca sĩ tài năng hay ưu tú- ai hát cũng làm người nghe sầu thương buồn nhớ mẹ. Có chàng trai bụi đời sương gió- là trùm du đãng một vùng. Sau khi đọc và nghe tùy bút cùng bài hát “Bông hồng cài áo”anh ta “đốn ngộ”-hoàn lương quay về với mẹ, từ bỏ một thời ngang tàng lầm lỡ…
“Bông hồng cài áo”, Thiền sư Nhất Hạnh viết: “Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ và để biết rằng mẹ đang còn sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi: "Mẹ ơi, mẹ có biết không?”.Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên và sẽ hỏi em, vừa hỏi vừa cười "Biết gì?". Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ nói: "Mẹ có biết là con thương mẹ không ?”. Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi người cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Mẹ và em sẽ đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng” . Có thể nói đây là đoạn nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ đã gần như trung thành với nguyên bản- một sự rút gọn tuyệt vời từ văn xuôi thành ca từ: “Rồi một chiều nào đó/ anh về/ nhìn Mẹ yêu/ nhìn thật lâu/ Rồi nói/ nói với Mẹ rằng "Mẹ ơi, Mẹ ơi, Mẹ có biết hay không ?” " Biết gì ?Biết là, biết là con thương Mẹ không?”. Tôi nghĩ phải là nhạc sĩ tài hoa mới đủ tầm để biến hóa tài tình ra vậy. Nói ra điều đó “Biết là, biết là con thương mẹ không?”- anh chị sẽ nghe lòng thanh thản nhẹ nhỏm và hạnh phúc lạ thường. Như lời sám hối với mẹ. Lâu nay con đã làm bao điều sai trái hư đốn, chơi bời lêu lỏng làm mẹ buồn. Và từ đây con sẽ sống tốt hơn có ý nghĩa hơn. Từ đây con vâng lời mẹ cha, cố lên chăm học chăm làm, làm điều lành tránh điều dữ, thực hành tam quy ngũ giới, tu tâm dưỡng tánh giữ trọn đạo làm người…Chỉ thế thôi là đủ phải không anh chị?
Anh chị đi hết đời lòng mẹ vẫn theo. Mẹ có thể vì con mà hi sinh tính mạng. Mẹ có thể vì con mà từ bỏ mọi thứ của cải và mọi điều ân sủng quý giá nhất. Mẹ là ngọn lửa vĩnh hằng: “Dẫu là nguyên thủ quốc gia/ Hay là những anh hùng/ Là bác học hay là ai đi nữa/ Vẫn là con của một người phụ nữ/ Một người đàn bà bình thường/ Không ai biết tuổi tên”( Xuân Quỳnh). “Bông hồng cài áo” kết thúc với điệp ngữ: “Đóa hoa màu hồng vừa cài lên áo đó anh/ Đóa hoa màu hồng vừa cài lên áo đó em/ Thì xin anh/ thì xin em/ Hãy cùng tôi vui sướng đi”. Lời hát và ca khúc vang lên giai điệu cuối: “Hãy cùng tôi vui sướng đi”…Thế mà âm vang về mẹ trong anh trong chị vẫn còn vọng lại. Mẹ ơi, mẹ ơi…Buồn thương lắm, man mác lắm, chan chứa lắm, bao la lắm, tha thiết lắm người ơi!
Tùy bút (hay bút ký nhỉ?) “Bông hồng cài áo” của thầy Nhất Hạnh đã xuất hiện và tồn tại gần năm mươi năm trong lòng bao đứa con của mẹ. Nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ phổ nhạc cũng đã chừng ấy năm; hằng ngày hằng đêm, mỗi mùa Vu Lan và khi buồn nhớ mẹ chúng ta lần giở trang tùy bút và lắng nghe giai điệu “Bông hồng cài áo”- để lòng thấu hiểu hơn- dày và dài thêm công ơn cha mẹ.
Tôi đang còn mẹ. Anh chị biết không? Mẹ tôi năm nay đã ngoài tám mươi, còn tôi đang bước vào lục thập, vậy mà tôi chưa làm được điều gì cho mẹ vui… Hơn ba mươi năm rồi tôi vẫn chưa kịp về với mẹ, chỉ thưa thớt mấy bữa phép năm. Căn nhà nhỏ nơi quê nhà mẹ vẫn cặm cụi hôm sớm. Đứa con bất hiếu cứ mãi chen chúc lợi danh, bao toan tính bon chen thu vén cho gia đình vợ con, cố tìm nơi chốn yên lành…“Mẹ không còn ở lâu với ông nữa đâu!”- ai đó thầm nhắc nhở, thúc giục… Mỗi ngày qua lòng tôi lại bồn chồn lo lắng. Căn nhà nhỏ thời thơ ấu của mẹ hiện về. Những bữa cơm đơn sơ đạm bạc, những hôm mưa dầm gió bấc, những ngày nắng rát gió Lào- mẹ tôi đôi quang gánh hàng xáo lầm lũi tần tảo nuôi con. Giờ đây ốm đau trái gió trở trời ai người chăm sóc, phụng dưỡng. Mẹ ơi, cái ngày con xa mẹ đang gần, Vu Lan sắp tới con có còn cài nụ hồng lên ngực …Câu chuyện ngày cũ trong điệu hò xứ Huế càng làm tôi đau đáu chạnh lòng. Chuyện rằng: Có hai vợ chồng nghèo khó túng bấn ngày mẹ mất họ chỉ lo ma chay qua quýt. Rồi họ cố lên tát cạn biển đông, câu hò ước nguyện trước bàn thờ vong linh mẹ: “Hò ơ…Nuôi con chẳng quản chi thân…ơ…hò…Bên ướt mẹ nằm bên ráo con lăn…ơ…Ôi… Lấy chi đền nghĩa khó khăn…ơ…hò…Thôi thì hai đứa mình lên non xắn đá xây lăng mà phụng thờ…hò…ơ…”
Biết con có làm được điều ấy không, mẹ ơi?
-------------------------------------------------------------------------------------
Lê Quang Kết
20 Nguyễn Thái Bình, Tp. Bảo Lộc, Lâm Đồng
ĐT: 0633 717 123 – 0907 615 510
Email: lequang54@gmail.com
Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2011
CHIẾC TRỐNG ĐẤT- Huy Cận
Chiếc trống Đất
Thuở nhỏ chăn trâu lên mái núi,
Tôi cùng chúng bạn chơi trò chơi,
Lấy dao đào đất làm tang trống,
Căng một dây rừng, đánh cúng trời.
Chiếc trống vang lên điệu cổ sơ
Vang từ lòng đất. – Đến bây giờ
Tôi còn nghe rõ trong chiều lặn
Tiếng dội như là đất thở ra.
Bóng núi lan nhanh xuống cánh đồng,
Theo từng nhịp trống dội mênh mông.
Trời như cũng xuống gần thêm chút,
Vang động hoàng hôn một sợi rừng.
Hồn trẻ nghe trong chiều vợi vợi,
Đất trời gần gũi tiếng nguyên sơ:
Xuống đồng, tiếng núi lăn theo xuống
Bản nhạc đầu tiên của tuổi thơ.
(7-1974)
ĐOÀN CHUẨN- Một giai thoại đẹp và buồn
VĂN QUANG - Ðoàn Chuẩn một giai thoại đẹp và buồn
(07/22/2011 06:02 PM) (Xem: 210)
Có những đêm về sáng
Ðời sao buồn chi lắm cố nhân ơi!
Ðó là nhạc Ðoàn Chuẩn. Nhạc của ông thường vẳng lên trong tâm tưởng tôi suốt 12 năm nằm trong “trại cải tạo” giữa những núi rừng miền Bắc giá buốt và miền Nam hiu quạnh. Không còn là nỗi nhớ, không còn là những tiếc nuối mà là nỗi u uất, thăm thẳm mịt mờ. Còn gì bi thảm hơn những đêm về sáng, nằm một mình giữa rừng núi hoang dại và mình cũng dại dột nhìn về dĩ vãng. Tuy thế, nhìn về dĩ vãng vẫn hơn là nhìn về tương lai chẳng có gì, chẳng còn gì, cũng thăm thẳm mịt mờ như núi rừng đêm nay và tất cả mọi đêm.
Nỗi ao ước âm thầm: Ước gì được nghe trọn vẹn một bản nhạc của Ðoàn Chuẩn!
Ðau xót mà nghe, càng nghe càng thấm, nghe bao nhiêu đau bấy nhiêu, như người ta muốn khóc thật to để vơi được phần nào những buồn khổ. Nhưng làm sao nghe được trong hoàn cảnh đó. Cho nên nó cứ vương vất nghẹn nỗi đau làm sao. Chỉ trong hai câu trong bản nhạc đó thôi, hình ảnh của người yêu, của bạn bè bật dậy, cả một quãng đời hiện lên mơ hồ, quằn quại như điệu múa từ tiền kiếp, không bao giờ gặp lại.
Hôm nay giữa T P Saigon, tôi ngồi nghe lại cả một cuốn CD nhạc Ðoàn Chuẩn khi nghe tin anh mất. Từ Hà Nội một người bạn tôi điện thoại cho biết tin này đầu tiên, trước khi những tờ báo ở Sài Gòn loan đôi dòng về tin buồn này. Người bạn tôi đã có từng có thời gian ở Hải Phòng vào những năm 1952-1953 và cũng đã có một số kỷ niệm với anh Ðoàn Chuẩn. Tôi cũng có một vài kỷ niệm nhưng là rất nhỏ, trước hết là nó nhỏ với một nghệ sĩ lớn tuổi như Ðoàn Chuẩn, có lẽ đến sau này anh chẳng còn nhớ tôi là “thằng nhóc” nào. Bởi anh hơn tôi đến gần 10 tuổi. (Anh sinh ngày 15-6-1924, tôi sinh năm 1933). Tuổi 19-20 với tuổi 30 khác nhau nhiều lắm. Còn hơn thế, hồi đó anh đã là một nghệ sĩ có tên tuổi, còn tôi chỉ là một anh “nhí”, đang là một “mầm non văn nghệ”.
Ðoàn Chuẩn và nhóm văn nghệ Hoa Niên
Nhóm Văn nghệ Hoa Niên của Hải Phòng thành hình vào khoảng năm 1952 do họa sĩ Trọng Thường thành lập. Thời kỳ của những thành phố mới hồi sinh sau giai đọan đầu của kháng chiến chống Pháp. Cả thành phố Cảng của miền Bắc dường như chỉ có một nhóm văn nghệ duy nhất đó thôi. Người trưởng thành nhất là họa sĩ Trọng Thường, anh đã từng tham gia trong một vài đoàn văn công kháng chiến rồi trở về “thành”, hồi ấy người ta gọi là “dinh tê”. Nhóm văn nghệ gồm khoảng chừng trên 10 người, những ca sĩ “hạng nhất” vào thời đó như Ngọc Quang, Tường Vi và những ca nhạc sĩ mới ra lò như Hoài An, Huyền Linh, Phó Quốc Thăng, Thu Huyền, Lương Thảo, Trần Hải… Sở dĩ tôi được gia nhập nhóm này vào cái tuổi 19-20 vì thỉnh thoảng đi chơi với Lương Thảo, Trần Hải và cũng đã có vài bài viết lách trên mấy tờ báo ở tận Hà Nội như Cải Tạo, Tia Sáng. Thời đó, Hải Phòng chưa hề có một tờ báo nào.
Vì thế nhóm văn nghệ “tài tử” này được dư luận chú ý. Khoảng giữa năm 1952, chúng tôi chuẩn bị tổ chức một buổi trình diễn thi ca nhạc kịch tại nhà hát lớn thành phố. Một tờ chương trình được in rất xôm, bài thơ của tôi đã “được đăng” trên nhật báo Tia Sáng cũng xuất hiện trên trang 2 của tờ chương trình này.
Trước buổi trình diễn thi ca nhạc kịch chừng một tuần lễ, anh Ðoàn Chuẩn đến thăm. Trụ sở của chúng tôi là căn nhà ngoài của anh em ca sĩ Ngọc Quang, trên con đường nhỏ gọi là Ngõ Nghè. Anh Ðoàn Chuẩn lúc đó đã đạo mạo lắm rồi. Dáng người khỏe mạnh, bảnh bao nhưng rất hiền lành. Anh hỏi thăm về đêm trình diễn và dĩ nhiên anh Trọng Thường không bỏ qua dịp may mời anh Ðoàn Chuẩn trình diễn một bản guitare Hawaiennne vốn là thứ đàn mà anh Ðoàn Chuẩn rất thành thạo. Anh nhã nhặn từ chối lấy cớ bận đi Hà Nội. Anh chỉ hứa sẵn sàng cho mượn một cái magnétophone để thu lại toàn bộ chương trình hôm đó. Vào thời này có được cái máy như thế không phải là chuyện nhỏ. Không những phải là con nhà giàu mà con phải là tay biết chơi mới gửi mua thứ này tận bên Tây. Nhưng rồi đến đêm trình diễn, chuyên viên thu thanh đã làm cháy cái máy ghi âm đó của anh.
Công tử của thành phố Cảng
Cũng vì chuyện này mà sau đó vài tuần tôi còn được gặp lại anh Ðoàn Chuẩn. Anh hỏi thăm anh Trọng Thường để lấy lại chiếc magnétophone. Anh Ðoàn Chuẩn cho tôi leo lên chiếc xe hơi, đó là chiếc xe Buick kềnh càng, láng coóng. Hồi đó cả miền Bắc chỉ có hai chiếc xe Buick nên anh Ðoàn Chuẩn rất tự hào về điều này. Nếu không có vụ này chắc chẳng bao giờ tôi được ngồi trên chiếc xe đó. Tôi đưa anh đến nhà anh Trọng Thường ở phố Cầu Ðất lấy lại chiếc máy dù nó đã bị cháy. Anh nhận lại máy mà không hề phàn nàn một tiếng. Tôi lo ngại theo dõi từng thái độ của anh và tôi lễ phép nói: “Cả nhóm lo lắm, anh Trọng Thường rất ân hận, phải trốn anh đấy. Không biết lấy gì mà đền anh đây”. Anh lắc đầu: “Anh sẽ gửi đi sửa, có ai muốn làm cháy đâu.” Tôi kính phục cử chỉ đó của anh.
Hồi đó anh được tiếng là công tử thành phố cảng. Một thành phố có hoa phượng đỏ trên cao, có lá me bay vàng đường và có những tàn lá bàng che rợp những mái hiên, nhưng không có những hàng sấu như Hà Nội. Gia đình anh nổi tiếng, hầu như khắp thành phố này không ai không biết tên. Hãng nước mắm Vạn Vân không chỉ nổi tiếng ở Việt Nam mà là ở cả Ðông Dương. (Người ta thường truyền tụng “cốm Vòng, cà Báng, húng Láng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân).
Cửa hàng nhà anh gồm bốn năm gian rộng trên đường vào Chợ Sắt. Thỉnh thoảng có dịp đi qua trước nhà anh tôi thường lén nhìn vào, cũng chẳng biết để làm gì.
Trong óc tưởng tượng của tôi, đôi khi tôi nghĩ đến một ngày nào đó sẽ được thấy chị Ðoàn Chuẩn. Qua những bản nhạc của anh, qua cung cách sống của anh, tôi hình dung ra một thiếu phụ rất hiền rất đẹp, da trắng như trứng gà bóc, vận chiếc áo dài bằng nhung xanh (màu xanh vốn là màu của Ðoàn Chuẩn), cổ đeo chiếc kiềng vàng, chân đi đôi hài thêu, đầu vấn tóc trần, có đôi mắt bồ câu đen lánh… Nhưng quả là tôi chưa thấy bao giờ, cho nên đến nay hình ảnh ấy vẫn còn nguyên vẹn trong tôi.
Sau năm 1954, anh ở lại miền Bắc, tôi ở miền Nam. Tôi có nhiều dịp để tìm hiểu về anh và những nghệ sĩ còn ở lại miền Bắc. Nhưng về anh thì tuyệt vô âm tín. Những nghệ sĩ như Văn Cao, Tô Vũ còn thấy sáng tác, còn tham gia hoạt động ở một số cơ quan. Song Ðoàn Chuẩn thì vẫn yên lặng. Thỉnh thoảng nghe lại những bản nhạc của anh, tôi thực sự thấy lòng nao nao. Gửi gió cho mây ngàn bay, Thu quyến rũ, Tà áo xanh, Tình nghệ sĩ… đều là những tác phẩm bất hủ. Những phòng trà ca nhạc, vũ trường thời đó hầu như đêm nào người ta cũng được nghe những bản nhạc Ðoàn Chuẩn, lên ngôi nhất là Thu quyến rũ do Ánh Tuyết hát (Ánh Tuyết xưa chứ không phải Ánh Tuyết ngày nay tại Sài Gòn, không phải Ánh Tuyết trong CD nhạc mà tôi vừa nghe vừa viết bài này).
Tôi phát biểu ở đây một nhận định rất riêng tư, một so sánh đầy cảm tính. Nếu nhạc của cố nhạc sĩ Văn Cao thanh cao, lời lẽ rất văn hoa, bay như cánh chim trong khung trời hoa thơm cỏ lạ đến tận Thiên Thai thì nhạc của cố nhạc sĩ Ðoàn Chuẩn lời lẽ bình dị, không bay bổng nhưng thấm sâu, rất sâu, hầu như bài nào cũng là nỗi nuối tiếc, đau đớn của con người thật đang sống. Có cảm tưởng như nỗi đau ở trước mặt, có thể sờ thấy, có thể cảm nhận rất rõ, nó quanh quẩn đâu đó như một phần cơ thể của chính mình. Nó gần gụi với người nghe lắm, như một lời tâm tình giản dị mang xuyên suốt một tình yêu tuyệt vọng với hình bóng thân thuộc của quá khứ đã… tàn rồi nhưng không bao giờ phai. Những bản nhạc của anh thường ký tên chung với một người bạn thân là Từ Linh, có người nói Ðoàn Chuẩn chỉ ký tên chứ Từ Linh không làm nhạc, nhưng có người bạn tôi là anh em kết nghĩa với Từ Linh lại cam đoan rằng đã từng thấy Từ Linh làm nhạc. Nhưng Từ Linh không xuất hiện bao giờ nên Từ Linh như một “ẩn số” với nhiều thính giả. Theo tin tức tôi có thì Từ Linh đã mất vào khoảng năm 1987 vì bệnh ung thư.
Những bí mật về bài ca được công bố cuối cùng
Ngòai những bản nhạc tôi đã nghe đi nghe lại không biết bao nhiêu lần, tôi thật sự kinh ngạc khi nghe bài Vĩnh Biệt trong CD “Gửi gió cho mây ngàn bay” do nữ ca sĩ Ánh Tuyết hát, Trung tâm băng nhạc Trẻ thực hiện, Bảo Chấn hòa âm. Thoạt tiên mở đầu bản nhạc, nghe như có tiếng trống thúc đâu đây, cứ ngỡ là bài hùng ca. Và ngay câu đầu tiên người ta đã nghe thấy lời ai oán của một “chiến tướng” đứng trước một thành quách bị tàn phá dưới tay quân địch: “Ai đốât Cô Tô thành vì đôi mắt giai nhân hề, lửa cháy báo tin rằng thành quách ta… Ai trót nhấp men tình để Mỵ Cơ thương nhớ, khi khóc rồi Tiễu Nhiên còn mơ…” “Em khác gì Quỳnh Giao, lúc cam lòng phung phí hết xuân xanh, lúc đêm về, thương cho đời mà cũng ghét cho đời mà cũng chán cho đời…” Tâm tình Tiễu Nhiên – Mỵ Cơ, Phạm Lãi – Tây Thi phải chăng chính là tâm trạng tác giả: Thương, ghét và chán chường? Nỗi niềm u ẩn cho cuộc tình và cho cuộc đời mình. Bài ca Vĩnh biệt còn được gọi là “Bài ca bị xé”. (Tôi được biết ở hải ngoại bài này còn được đặt tên là Vàng phai mấy lá). Và bài ca cho đến mãi sau này mới được phổ biến. Tại sao vậy? Ðây là một bí mật riêng tư của tác giả. Nhưng nay anh đã thành người quá cố, những người yêu nhạc của anh thì chắc nhiều người muốn biết. Có người cho rằng bài này được làm từ năm 1955, đó là kết quả của một mối tình tuyệt vọng giữa Ðoàn Chuẩn và một danh ca thời xưa, nay còn sống ở Sài Gòn.. Có nghĩa là tác giả yêu nhưng không bao giờ được yêu lại. Bởi thế nên bài ca bị xé.
Nhưng tôi đã đem ý kiến này hỏi nhạc sĩ Lê Hoàng Long, một người bạn của anh Ðoàn Chuẩn và một vài người khác. Có người cho rằng đó là kết quả của một mối tình nồng nàn say đắm. Hồi đó anh Ðoàn Chuẩn ở Hải Phòng yêu một nữ danh ca ở Sài Gòn. Anh đã yêu cầu một hàng bán hoa ở đường Catinat, mỗi ngày đưa đến tặng nữ ca sĩ một bó hoa tươi nhưng không ghi tên người gửi. Nữ ca sĩ này không nhận và đòi phải cho biết tên. Ðoàn Chuẩn hứa là sẽ cho biết tên sau nửa tháng. Và nửa tháng sau đó Ðoàn Chuẩn đã tiết lộ tên người gửi hoa. Trong hoàn cảnh như thế ai cầm lòng cho đậu. Mối tình bắt đầu. Nhưng tiếc rằng cả hai người đều đã có gia đình nên một thời gian sau mối tình tan vỡ. Bài ca cũng đã nói lên sự “đàn trùng dây, phím lỡ”.
Bài ca không được phổ biến và bị xé vì mang nỗi đau thương như không thể nói thành lời, như một sự dỗi hờn với định mệnh. Nhưng tất cả chỉ là dự đoán. Sự thật như thế nào chỉ có ông mới biết và những người yêu nhạc Ðoàn Chuẩn bây giờ coi như một giai thoại đẹp và buồn khi vĩnh viễn chia tay với người nghệ sĩ tài hoa, người mãi mãi là một công tử, một nghệ sĩ tài tử đúng nghĩa nhất đối với tôi.
Một bài thơ của Ðoàn Chuẩn:
Khi tôi vừa viết xong bài này, nhạc sĩ Lê Hoàng Long có đưa cho tôi một bức ảnh của anh Ðoàn Chuẩn và phía sau bức ảnh có hàng chữ ghi:
“Long, Tao mời mày chén rượu đầu xuân con Rắn, và ngâm:
Em ơi! Lá có rơi ngoài muôn ngả
Thì chung quy cũng chỉ vì đất thân yêu.
Anh phong sương, mưa nắng đã hoen nhiều
Ðời nhạc sĩ có gì vui đâu em hỡi!
Anh ra đi em cũng đừng chờ đợi
Mai anh về kia nữa hoặc… chẳng bao giờ”.
30-1-1989”
Xin được gửi đến bạn đọc gọi là chút kỷ niệm của “người xưa”
Chủ Nhật, 24 tháng 7, 2011
ĐI VÀO CÕI THƠ TUỆ SĨ- Bùi Giáng
ÐI VÀO CÕI THƠ TUỆ SĨ
Văn Học và Nghệ Thuật - Văn Thơ Phật Giáo
Viết bởi Bùi Giáng
Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u.... Một bữa ông đọc cho tôi nghe hai câu thơ chữ Hán của ông :
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Ông bảo làm sao tiếp cho hai câu để nên một bài tứ tuyệt. Tôi đề nghị với ông nên nhờ ni cô Trí Hải tiếp giùm. Ông ngượng nghịu bảo tôi đừng nên rỡn đùa như thế. Vậy tôi xin lai rai thử viết :
Thâm dạ phong phiêu nghiệp ảnh tùy
Hiện tiền vị liễu lạc hoa phi
Phiêu bồng tâm sự tân toan lệ
Trí Hải đa tàm trúc loạn ty
Và xin ông chả nên lấy thế làm bực mình.
Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Ở Một bài thơ "Không đề" của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ :
Ðôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Mới nghe bốn câu thôi, tôi đã cảm thấy lạnh buốt linh hồn, tê cóng cả cõi dạ.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Ðếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược nước xuôi ngàn
Tôi hoảng vía đề nghị : Ðại Sư nên gác bỏ viết sách đi. Và làm thơ tiếp nhiều cho, Nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một thiên tài quá lớn.
Ông đáp : - Ðể về hỏi lại cô Trí Hải xem có đúng như lời thế chăng.
Ðôi mắt ướt tuổi vàng
Cung trời
Hội cũ
Xin xuống giòng thư thả như thế. Ắt nhìn thấy chất trang trọng dị thường của hoài niệm. Hoài niệm gì ? - Cung trời hội cũ.
Một hội đạp thanh ? Một hội nao nức ? - "Giờ nao nức của một thời trẻ dại ?".
Ðôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ...
Mở lời ra, nguồn thơ trực nhập vào trung tâm cơn mộng chiêm niệm. Ðầy đủ hết mọi yếu tố bát ngát : một cung trời xán lạn bao la, một hội cũ xao xuyến, một tuổi vàng long lanh.... Một đôi mắt ướt ngậm ngùi của hiện tại.
Nhưng mạch thơ đi ngầm. Tiết nhịp âm thầm nhiếp dẫn. Thi sĩ không cần tới một hình dung từ nào cả, vẫn nói được hết mọi người đều "phải nói" với mọi người "muốn nghe" với riêng mình "không thiết chi chuyện nói".
Người thi sĩ xuất chúng xuất thần thường có phong thái khác thường đó. Họ nói tất ít mà nói rất nhiều. Họ nói rất nhiều mà chung quy hồ như chẳng thấy gì hết. Họ nói cho họ, mà như nói hết cho mọi người. Nói cho mọi người mà cơ hồ chẳng bận tâm gì tới chuyện thiên hạ nghe hay chẳng nghe. Nỗi vui, nỗi buồn của họ, dường như chẳng phi giống lối vui buồn của chúng ta. Do đó chúng ta trách móc họ một cách lệch lạc hết cả (par manque de justice interne).
Trong một cuộc vui, ta hỏi họ vài điều. Họ lơ đễnh thờ ơ, ta tưởng họ kiêu bạc. Trong lúc mọi người đang gào khóc giữa đám tang, họ phiêu nhiên đi qua, trông có vẻ như mỉm cười, niêm hoa vi tiếu. Ta tưởng họ tàn nhẫn thô bạo.
Vua Gia Long ngày xưa đã từng lấy làm quái dị về thái độ Nguyễn Du :
"Trẫm dùng người, không phân biệt kẻ Nam kẻ Bắc. Ai có tài thì trẫm trọng dụng (... ...). Cớ sao khanh lại u sầu ít nói suốt năm như thế ?".
Ông vua kia lấy làm lạ là phải lẽ lắm, hợp với lương tri thói thường thiên hạ lắm. Ông không thể hiểu vì sao vị di thần kia cứ miên man như nằm trong cõi mộng thần di, hồn dịch !
Vua đã ban cho chan hòa mưa móc, lộc trọng quyền cao đặc ân thâm hậu như thế, cớ sao Liệp Hộ chưa vừa lòng, vẫn chưa cứ thả mộng chạy lang thang về chân trời hướng khác.
Ðáp : Ấy chính bởi đôi mắt nhìn đây mà thấy những đâu đâu.
Ðôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Ðôi mắt ướt ? Ðôi mắt của ai ? Vì sao ướt ? Vì lệ trào, hay là vì quá long lanh ?
Thi sĩ không nói rõ. Ấy là giữ một khoảng trống vắng lặng phóng nhiệm cho thơ.
Tha hồ chúng ta tự do nghĩ hai ba lối. Hoặc là đôi mắt thi nhân ướt trong hiện tại vì nhớ nhung một trời hội cũ. Hoặc là đôi mắt giai nhân nào long lanh dịu mật như nước suối chan hòa, soi bóng một khung trời hội cũ bất tuyệt nào, mà ngày nay tại hạ đã đánh mất rồi chăng ?
"Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang"
Áo nào màu xanh ? Màu xanh màu chàm của cô gái Mán gái Mường, gái núi nào xưa kia băng rừng và thi nhân đã ngẫu nhiên một lần nhìn đắm đuối ?
Tôi nói không sai sự thật mấy đâu. Vì Tuệ Sỹ vốn xưa kia ở Lào. Cha mẹ ông kiều cư trên đất Thượng Lào Trung Việt. Bà mẹ ông thỉnh thoảng cũng trở về Sài Gòn tới chùa viếng ông đem quà cho ông một đôi dép riêng biệt, một tấm khăn quàng riêng tây.
Ðôi mắt ướt tuổi vàng
Khung trời hội cũ
Áo màu xanh
Không xanh mãi
Trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ.
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ ?
Mình là thân Bồ tát, quanh năm kinh kệ trai chay, thế sao bỗng nhiên một phút vội vã lại dám làm thân du thủ ? Dám gác bỏ kệ kinh ? Dám mở cuộc thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn ?
Phải có nhìn thấy khuôn mặt khắc khổ chân tu của Tuệ Sỹ, mới kinh hoàng vì lời nói thăm thẩm đơn sơ nọ. Lời nói như ngân lên từ đáy sâu linh hồn tiền kiếp, từ một quê hương trên thượng du bao la rừng núi gió sương canh chiều nguyệt rung rinh trong đêm lạnh.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Mối tình rộng thả suốt biển non im lìm lạnh lẽo. Một hạt muối vẫn chưa tan. Một nếp u ẩn của lòng mình bơ vơ không gột rửa.
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Ðỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Ta tưởng như nghe ra "cao cách điệu" bi hùng của một Liệp Hộ, một Nerval, một chỗ trầm thanh nhất trong cung bậc Nietzche.
Thy nhân đã mấy phen ngồi ngó trăng tàn ? Ngồi trên một đỉnh đá ? Bốn bề rừng thiêng giăng rộng ngút ngàn màu trăng xanh tiếp giáp tới chân trời xa xuôi đại hải ?
Ðỉnh đá và hạt muối là hai chốn kết tụ tinh thể của núi và biển. Ðỉnh đá quy tụ về mọi hương màu trời mây rừng rú. Hạt muối chứa chất cái lượng hải hàm của trùng dương. Ðó là cái bất tận của tâm tình dừng sững tại giữa tuết nguyệt phiêu du :
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Một tiếng "buồn chăng" lơ lửng nửa như chất vấn, nửa như ngậm ngùi ta thán, dìu về cả một khúc tâm thanh đoạn trường :
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
Ðếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Tiết nhịp lời thơ lại biến đổi :
Ðếm tóc bạc
Tuổi đời
Chưa
Ðủ
Bụi đường dài
Gót
Mỏi
Ði
Quanh
Tiết điệu rạc rời như gót mỏi đi quanh. Một tuổi đời chưa đủ ? Một tuổi xuân chưa vừa ? Một tuổi vàng sớm chấm dứt ? Một tuổi "đá" sớm từ giã mọi yêu thương ?
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối nguồn xa
Ngược nước
Xuôi ngàn
Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đềm lữ thư khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.
Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Ðường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương./.
Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2011
Phạm Công Thiện- Phan Tấn Hải
Nghĩ Về Nhà Thơ Phạm Công Thiện
Phan Tấn Hải
Nhà thơ, nhà tư tưởng, giáo sư Phạm Công Thiện, Pháp Danh Nguyên Tánh, vừa từ giã cõi thế vào ngày 8 tháng 3 năm 2011 tại Thành Phố Houston, Texas, Hoa Kỳ.
Làm thế nào để hình dung về Phạm Công Thiện? Một lần tôi đã tự hỏi mình như thế. Và ngay lập tức trước mắt tôi hiện ra một cặp kính cận dày cộm và chòm tóc trắng phất phơ... Có lẽ, nếu vẽ vài nét trên giấy kiểu tốc hoạ thì thế như dường là đủ. Không, chưa đủ. Vậy thì nghe thêm giọng nói Nam bộ đặc biệt của anh. Hay là thêm khuôn mặt tròn, và đôi mắt thơ ngây...
Nhưng tận cùng, Phạm Công Thiện là một nhà thơ và là một thiền sư – và đó là những phẩm chất rất khó hình dung, vì mỗi nhà thơ và mỗi thiền sư đều có những độc đáo riêng. Và tôi tin rằng, khi nào thân xác anh rời khỏi thế giới đời thường này, rất nhiều người sẽ gọi Phạm Công Thiện là một vị Bồ tát, một danh hiệu tôn quý trong Phật giáo và là một hạnh nguyện để chỉ một người tái sinh từ kiếp này sang kiếp khác để giúp cho mọi người hiểu được thật nghĩa của vũ trụ. Trong những năm qua, rất nhiều tăng ni Phật tử đã gọi nhà thơ Bùi Giáng là một vị Bồ tát, và tôi tin là sau này, Phạm Công Thiện cũng sẽ được tôn vinh như thế, bất chấp những đời thường bất toàn mà chúng ta đôi khi gặp nơi anh.
Thực sự, tôi đã nhìn anh như một vị Bồ tát từ những ngày tôi mới lớn, và ngay khi lần đầu đọc cuốn Ý thức mới trong văn nghệ và triết học. Lúc đó, tôi đang học lớp đệ tứ, hay đệ tam ở Chu Văn An, Sài Gòn. Bây giờ gọi là lớp 9 hay lớp 10. Đâu đó, khoảng giữa thập niên 1960. Dù là đọc ngấu nghiến, nhưng một ngày không đủ, và đọc một tuần cũng không đủ. Vì có những dòng tôi phải đọc đi đọc lại, không hoàn toàn vì tính bí hiểm triết lý, mà chỉ vì tính thơ mộng dị thường trong ngòi bút của anh. “Đi cho hết những đêm hoang vu trên mặt đất...” Thế đấy, tôi đã đi như thế từ bốn thập niên trước trên các trang sách của anh.
Tôi đã ngồi ở sân Chùa Xá Lợi, dưới các tàng cây ngọc lan và bông sứ lần giở từng trang sách đó. Và rồi lại ngồi trong một quán cà phê cách trường Chu Văn An vài mươi bước, ngay lối vào ký túc xá Minh Mạng của các anh chị sinh viên lớn. Không phải chuyện ngồi đọc cho ra vẻ triết gia, mà thực sự vì có những đoạn văn trong cuốn Ý thức mới làm tôi run rẩy cả người. Từng trang một, giữa các dòng chữ của Phạm Công Thiện toát ra một hơi lạnh của vũ trụ vô cùng vô tận. Và tuy là văn xuôi, hầu hết, nhưng thi tính vẫn dày đặc kinh ngạc.
Lúc đó, tôi chưa từng gặp anh, nhưng lại có cảm giác Phạm Công Thiện phải là một cái gì có màu xanh, phải liên hệ tới màu xanh, thí dụ xanh da trời hay xanh lá cây. Không biết tại sao, nhưng trong trí óc tôi lúc đó, là một thiếu niên say mê đọc sách và cứ nghĩ tới triết gia Phạm Công Thiện là thấy hiện lên một màu xanh. Phải màu xanh mới lạnh chứ. Vì từng trang Ý thức mới đều mang theo hơi lạnh đó. Trong đó, có hơi lạnh Đà Lạt, có sương mù Paris, có ngồi thiền trên đồi vắng, có chất vấn về triết lý với cái búa của Nietzsche, với hiện sinh Camus, và vân vân, và vân vân. Đủ thứ mà bây giờ tôi không thể nhớ hết. Cứ mở trang sách ra, là hơi lạnh của vũ trụ vô cùng vô tận lại toát ra từ các dòng chữ của anh. Bất kể lúc đó, tôi đang ngồi trong sân chùa Xá Lợi, hay vài tuần sau nữa tới la cà tại các quán cà phê trên đường Nguyễn Thiện Thuật, nơi đó có khi tôi ngồi ở quán cà phê Bình Minh và có khi bước sang kế cận ngồi ở quán Hoàng Hôn, và nơi đó cứ mỗi chiều trở về đêm là đèn đường hắt xuống màu vàng mờ nhạt làm tôi cứ ngỡ mình đang ngồi giữa Paris đọc sách.
Mới biết, văn chương mạnh như thế. Sau này, nhiều thập niên sau, khoảng đầu thập niên 1990, được cơ duyên gặp nhà thơ Phạm Công Thiện tại Quận Cam, California, tôi ngạc nhiên không hiểu vì sao thời mới lớn mình lại cứ hình dung anh ra một màu xanh. Nhớ lại mới ngạc nhiên. Đúng ra, nếu phải liên kết với màu sắc, nơi anh phải là một màu trắng. Tóc trắng một chòm, kính trắng dày cộm, đôi mắt cực kỳ ngây thơ, khuôn mặt bầu, lại thường mặc áo trắng hay màu sáng. Và toàn thân Phạm Công Thiện toát ra cả một màu trắng hồn nhiên, thơ ngây. Nhưng tới tuổi trung niên rồi, tôi không còn bận tâm chuyện màu sắc nữa, dù là người hay chữ, hay mực, hay giấy. Thêm nữa, khi đọc lại anh, tôi không còn nhiều rung động mạnh mẽ như thời mới lớn, dù là lòng tôn kính anh vẫn không mờ nhạt trong tôi.
Nếu phải giải thích, có lẽ cảm giác màu trắng sau này nhiều phần tôi có cũng từ một bài thơ của Phạm Công Thiện được nhạc sĩ Lê Uyên Phương phổ nhạc. Trong bài thơ, tôi nhớ có những câu dị thường như:
... Mười năm qua gió thổi đồi tây
Tôi long đong theo bóng chim gầy
Một sớm em về ru giấc ngủ
Bông trời bay trắng cả rừng cây...
Và nhớ nhất là mấy chữ:
... Tôi đứng trên đồi mây trổ bông...
Thực sự, gọi Phạm Công Thiện bằng “anh” là điều không phải lẽ đối với tôi, trên nguyên tắc. Vì tôi đã từng trực tiếp nghe nhiều vị danh tăng gọi Phạm Công Thiện bằng danh xưng “thầy” rất là tôn kính, trong những vị gọi như thế có những thượng toạ hiện là tác giả và dịch giả nhiều sách về Phật học. Dễ hiểu, Phạm Công Thiện đã từng dạy ở Đại học Vạn Hạnh, nơi đào tạo nhiều thế hệ tăng ni và trí thức Phật giáo.
Đứng về mặt đời thường, lý ra tôi cũng phải gọi anh là thầy. Vì thực tế, Phạm Công Thiện còn là thầy của vợ tôi – nàng kể lại rằng trong thập niên 1980 vẫn thường mỗi tuần sang Chùa Liên Hoa, trên đường Bixby, thị xã Garden Grove, Quận Cam, để nghe thầy Thiện giảng Kinh Kim Cang.
“Không hiểu gì cả, nhưng ông Phạm Công Thiện dạy hay hơn mấy thầy khác nhiều, kể cả mấy thầy ở Đại học Vạn Hạnh hồi xưa.” Đó là lời nàng kể, khi còn nhắc là năm 1974, nàng đã từng học miệt mài ở Đại học Vạn Hạnh...
Tại sao không hiểu gì hết, mà lại thấy hay? Tôi nghĩ, chỉ có Kinh Phật và thơ mới thế thôi.
Như thế, đúng ra tôi phải gọi nhà thơ Phạm Công Thiện bằng thầy. Nhưng cơ duyên lại là, lòng anh Thiện rất mực thoải mái, không nghi lễ. Và tôi lại là bạn thân của các nhà thơ Lê Giang Trần, Phạm Việt Cường... những người thân tình và thường uống rượu với anh. Nói là uống rượu nghe có vẻ trần gian lắm, nhưng phải nhìn thấy Phạm Công Thiện mới thấy là hoàn toàn không có gì gọi là trần gian nữa. Tất cả thế gian quanh anh đều thoạt hiện ra như thơ, như văn, như nhạc, như hoạ... Và cả đôi khi tôi ghé nhà Lê Giang Trần ở trong một khu mobile home chật chội, u tối, tại Santa Ana và gặp anh Phạm Công Thiện đang ngồi trong nhà Trần với chai rượu trên bàn. Tất cả thế gian đều như mộng, như huyễn, như sương rơi, như điện chớp... Sự hiện diện của anh Phạm Công Thiện như dường để nhắc tới tính vô thường đó.
Khi tôi tới Quận Cam năm 1990, anh Phạm Công Thiện đã tạm ngưng các lớp Phật học ở Chùa Liên Hoa mấy năm rồi, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn cơ may gặp nhà thơ dị thường này. Và nếu sau này có ai muốn biết về các chuyện đời thường của Phạm Công Thiện, tôi nghĩ rằng nhà thơ Lê Giang Trần có thể kể lại trên cả ngàn trang sách, vì cứ hễ anh Thiện về Quận Cam thì chỉ nghe về ở nhà Lê Giang Trần, một nhà thơ cũng thơ mộng lạ lùng và dị thường. Còn thì, khi nghe tin anh đi Úc, khi nghe nói anh lên ngụ ở chùa Diệu Pháp ở Los Angeles, và khi thì nghe đủ thứ địa danh trên địa cầu. Nói thế, không có nghĩa Trần là bạn đời thường của anh Thiện. Thực sự, nhà thơ Lê Giang Trần nhìn nhà thơ Phạm Công Thiện như một vị Bồ tát. Một hoá thân, không thể khác hơn được, trong mắt của Trần.
Người ta không thể hình dung hết những tôn kính mà nhiều người dành cho Phạm Công Thiện. Bất kể là anh đã từng sống rất đời thường, hệt như bao nhiêu người khác giữa phố chợ trần gian. Bất kể là anh cũng viết báo lung tung, cũng một thời tranh luận từ trước 1975 tại Sài Gòn, và rồi lại viết báo tranh luận tại Los Angeles thời 1980 sau này. Và bất kể là anh uống rượu cũng tưng bừng, cũng mấy lần vợ con, cũng thích hút thuốc lá, cũng nhiều thứ rất trần gian... Nên thấy, trong những người tôn kính Phạm Công Thiện có nhiều vị sư, có nhiều nhà thơ, và tôi tin là không thể đếm hết.
Không phải những người đó tôn kính Phạm Công Thiện chỉ vì anh từng là giáo sư Đại học Vạn Hạnh (nơi này có cả trăm giáo sư chứ), hay vì anh làm thơ hay (trước và sau anh cũng có nhiều nhà thơ xuất sắc chứ), hay vì anh đã hùng biện để bảo vệ Phật giáo (đâu có mấy ai nhớ anh đã gây lộn với ai, và về đề tài gì), hay vì anh có thể vừa mới rời một quán nhậu nơi đường Westminster là bước vào ngôi chùa đường Bixby giảng Kinh Kim Cang mà vẫn dạy hay hơn tất cả các ông sư trên đời này (có thể, nhưng chi tiết này cần phải kiểm chứng, vì các vị giảng sư chưa chắc đã đồng ý là có ai giảng Kinh này hay hơn họ), hay vì anh mỗi lần vào thư viện Mỹ là mượn ra cùng một lúc 30 cuốn về đọc tốc độ còn mau hơn các thiếu niên Sài Gòn đọc truyện võ hiệp Kim Dung (tôi tin có người còn đọc nhanh hơn), và vân vân...
Có thể vì vai trò của Phạm Công Thiện trong sự phát triển Phật giáo cũng lớn lao? Thực ra, có nhiều vị đã đóng góp cho Phật giáo nhiều hơn anh nhiều. Thí dụ, như cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, HT Minh Châu, HT Trí Thủ, HT Thanh Từ, HT Nhất Hạnh, TT Tuệ Sỹ, GS Lê Mạnh Thát... Thực sự, Phạm Công Thiện không viết nhiều về Phật giáo.
Còn nói về các chức vụ chính thức thì Phạm Công Thiện cũng không hơn nhiều vị khác, dù anh từng là “nguyên Giáo sư Triết học Tây phương Viện Đại học Toulouse, Pháp quốc, nguyên Giáo sư Phật giáo Viện College of Buddhist Studies, Los Angeles, Hoa Kỳ, nguyên Giám đốc soạn thảo tất cả chương trình giảng dạy cho tất cả phân khoa Viện Đại học Vạn Hạnh từ năm 1966-1968, nguyên khoa trưởng phân khoa Văn học và Khoa học Nhân văn của Viện Đại học Vạn Hạnh từ năm 1968-1970, sáng lập viên và nguyên chủ trương biên tập tạp chí Tư tưởng của Viện Đại học Vạn Hạnh, 1966-1970” (theo phần chú thích trong bài “Hai vị thiền sư,” Phạm Công Thiện viết tại California ngày 18.10.1988 về TT Tuệ Sỹ và TT Trí Siêu, vị sau này thường dùng tên là GS Lê Mạnh Thát. Báo Nguồn sống số 16-17, 1989, San Jose, California).
Vậy mà, cũng như nhà thơ Lê Giang Trần nói trên, tôi tin Phạm Công Thiện phải là một kiểu hoá thân Bồ tát. Nếu Tây Tạng có các hoá thân Đạt Lai Lạt Ma, Ban Thiền Lạt Ma, Karmapa, Rinpoche, vân vân... thì Việt Nam mình ngay trong thời này cũng có các hoá thân Bồ tát như các nhà thơ Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện... Bạn không tin? Hãy hỏi các vị sư Sài Gòn ở thế hệ trung niên trở lên, như dường cũng có nhiều vị sư chia sẻ niềm tin như thế.
Còn nói theo kiểu bây giờ, thì Phạm Công Thiện đã xuất hiện trong Phật giáo một cách “rất là ấn tượng.” Chuyện Phạm Công Thiện trở thành nhà sư Thích Nguyên Tánh thì cũng có nhiều người biết, và vẫn được truyền tụng hoài. Nhưng nơi đây, để nghe tận nguồn, chúng ta hãy nghe nhà thơ Quách Tấn kể lại, trong “Hồi ký về thượng toạ Thích Trí Thủ” (http://www.phatviet.com/vanhoc/vh008.htm), khi giới thiệu anh Thiện với thượng toạ Trí Thủ (lúc giữ chức Giám viện Phật học Viện Hải Đức, nơi thi sĩ Quách Tấn dạy các tăng ni môn quốc văn), trích:
Khoảng đầu năm 1964, Phạm Công Thiện bị khủng hoảng tinh thần, ở Mỹ Tho ra Nha Trang an dưỡng. Lên chơi chùa Hải Đức, Thiện ước được sống trong cảnh u tịch trong ít lâu để lấy lại sức khỏe. Tôi liền đến xin thượng toạ, và tỏ thật rằng Thiện là một thiên tài và là người Cơ Đốc giáo, mọi người trong chùa tỏ ý không bằng lòng. Thượng toạ cười:
“Không hề gì, có bác Quách bảo đảm.”
Nhưng để “đề phòng”, thượng toạ cho dọn một căn phòng dưới xưởng làm hương để Thiện ở, trưa chiều lên chùa ăn cơm.
Được nơi ăn chốn ở vừa ý, Thiện bảo tôi:
“Để đền ơn ông, tôi xin hẹn trong sáu tháng sẽ đọc và hiểu được kinh chữ Hán.”
Tôi không dám tin, nhưng cũng không dám ngờ.
Ở Trại Thuỷ, cả ngày Thiện nằm đọc sách. Thỉnh thoảng tôi đến thăm Thiện và thượng toạ Trí Thủ. Một hôm thượng toạ bảo tôi:
“Anh chàng có đạo tâm.”
Tôi cười thầm trong bụng: “Đạo Thiên Chúa hay đạo Phật.”
Ba tháng sau, tôi lên Hải Đức, không thấy Thiện nơi xưởng hương. Hỏi người làm hương trong xưởng cho biết rằng thượng toạ Trí Thủ đem anh lên ở nơi cốc của thượng toạ hơn một tháng rồi.
Tôi bèn leo dốc lên cốc: một nhà sư trẻ đang ngồi xếp bằng ngay ngắn, mắt lim dim trên chiếc ghế dài nơi cốc. Nhìn kỹ thì là Phạm Công Thiện! Rõ là một nhà sư 100 phần trăm. Thiện ngồi yên, tôi lẳng lặng đi vào cốc. Thượng toạ Trí Thủ mừng rỡ, muốn gọi Thiện. Tôi “xin đừng”. Sau mấy câu hàn ôn như thường lệ, thượng toạ nói:
“Thiện quy y với tôi rồi, tôi đặt cho pháp danh là Nguyên Tánh."
Tôi không tỏ ý tán thành cũng không tỏ ý phản đối. Đối với Thiện quy y cũng thế mà không quy y vẫn thế.
Mấy tháng sau – tháng 9 năm 1964. Tôi lên Hải Đức một lần nữa. Cốc đóng — người trong chùa cho biết thượng toạ cùng Thiện vào Sài Gòn, còn lâu mới về. Tôi cảm thấy bùi ngùi như nhớ nhung, như thương tiếc.
Tôi ngẫu chiếm một tuyệt:
Lịu địu
Áo giũ ngày sương gió
Lên chùa thăm cố nhân
Non nghiêng thềm nắng xế
Lịu địu bóng nhàn vân.
Sau nghe tin Thiện dạy học ở Đại học Vạn Hạnh, rồi đi Mỹ, đi Pháp. Còn thượng toạ Thích Trí Thủ thì trụ trì chùa Già Lam, rồi được phong hoà thượng, thỉnh thoảng mới về Nha Trang thăm chùa cũ và nghỉ ngơi. Thiện thì từ ngày từ giã Nha Trang, tôi không còn gặp lại...”
Bây giờ Phạm Công Thiện không viết nhiều như ngày xưa nữa. Những cuốn sách gần đây đa số là viết về Phật A Di Đà và Bồ tát Quan Thế Âm. Từ lâu, anh cũng không làm thơ nhiều nữa. Những tác phẩm thời trẻ của anh, khoảng hơn hai mươi cuốn, còn được quần chúng nhớ đặc biệt là vài cuốn, như: Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma, tổ sư Thiền tông (1964), Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (1965), Ngày sanh của rắn (1967)... Cuốn được nhớ tên nhất tại hải ngoại của Phạm Công Thiện, có lẽ là cuốn Đi cho hết một đêm hoang vu trên mặt đất (1988)...
Nhưng đêm hoang vu của anh vẫn chưa hết, cho nên vẫn thấy anh đi liên tục. Để theo dõi bước đi một đoạn đời của anh, hãy trích một chút sau đây từ cuốn Những bước chân nhẹ nhàng trở về sự im lặng của Phạm Công Thiện, xuất bản 1994 tại Los Angeles, từ Lời nói đầu:
“Quyển sách này được viết chậm rãi thong dong từ trên 10 năm nay, từ năm 1983 tại Los Angeles và tại những vùng phụ cận Los Angeles, California, Hoa Kỳ. Từ năm 1970 cho đến 1983, tôi đã sống ở Do Thái, rồi ở Đức quốc và ở lâu dài tại Pháp quốc; đến năm 1983, qua một cơn chuyển động toàn diện của tâm thức viễn ly, tôi đã trở lại Hoa Kỳ, trở lại thành phố Los Angeles sau một thời gian xa vắng gần 20 năm; từ năm 1983 cho đến năm 1994, trên 11 năm nay, lại qua nhiều cơn chuyển động toàn diện liên tục của tâm thức viễn ly, tôi vẫn tiếp tục sống ở thành phố Los Angeles; sau vài chuyến lui về vùng đồi núi im lặng ở Úc châu, tôi vẫn trở lại thành phố Los Angeles như trở về tập sống hồn nhiên tự tại với những cơn động đất thường xuyên của đời mình...”
Bây giờ Phạm Công Thiện vẫn còn đi. Và đôi khi vẫn còn viết – như một nghiệp tiền định của anh.
Nếu bạn nhớ rằng Phạm Công Thiện sinh năm 1941 thì mới kinh ngạc, khi biết rằng anh in cuốn Tiểu luận về Bồ Đề Đạt Ma năm 1964, nghĩa là khi mới 23 tuổi. Nơi đây, chúng ta không nói chuyện cuốn sách anh viết đã có giúp gì cho ai về mặt giác ngộ hay không (chuyện này, khó có thước đo), nhưng chỉ nói về đề tài để khảo sát, suy nghĩ và viết xuống thì đã là một điều hết sức dị thường. Tôi từng đọc rằng khi anh còn ở tuổi vị thành niên, anh đã soạn một cuốn Tự điển Anh ngữ tinh âm, nhưng vì tôi chưa bao giờ đọc cuốn này cho nên không dám bàn. Nhưng ở tuổi 23, mà anh viết sách Thiền tông thì phải có một tâm hồn rất mực thơ mộng, một khát khao trí tuệ rất mực mãnh liệt, dù là, đối với Thiền tông, đúng hay sai và mê hay ngộ cũng là chuyện rất mực khó dò...
Nhưng vì sao một người đời thường lại được cả các tăng ni tôn kính? Mà người đời thường này, anh Phạm Công Thiện, lại không hề biết cách kiếm tiền... Tôi nghĩ, nhiều phần là trong các kiếp trước, Phạm Công Thiện đã từng là thầy, từng là bậc tôn túc của các vị tăng ni kia, và của nhiều cư sĩ đời thường như tôi...
Và tôi tin rằng, khi Thiền sư Thi sĩ Phạm Công Thiện từ trần, chắc chắn sẽ có rất nhiều người gọi anh là Bồ tát, một danh hiệu rất mực tôn kính trong nhà Phật, chỉ đứng sau danh hiệu Đức Phật. Tại sao như thế? Tôi không thể trả lời chính xác. Nhưng nhà thơ Bùi Giáng đã được tôn xưng là Bồ tát, và tôi tin, chắc chắn rằng Phạm Công Thiện cũng sẽ được tôn xưng như thế. Thêm nữa, Kinh Pháp Hoa cũng viết rằng tất cả mọi người đều là Phật – và bây giờ nhiều người trong chúng ta đã quen thuộc với cách Phật giáo Tây Tạng gọi ngài Đạt Lai Lạt Ma là Bồ tát Quan Thế Âm, gọi ngài Ban Thiền Lạt Ma là Phật A Di Đà hoá thân...
Để trả lời cho bớt vẻ thần bí hơn, có lẽ nên nói rằng nhà thơ Phạm Công Thiện đã đánh thức được nơi rất nhiều người niềm say đắm với cuộc đời. Bất kể là nhân loại thường trực đối diện với biết bao nhiêu là hố thẳm và hoang vu, chính niềm say đắm này đã và đang dẫn chúng ta đi qua biết bao nhiêu là ngọn đồi mây trắng...
Thứ Hai, 11 tháng 7, 2011
Bàn về cái thiêng liêng- Lê Phú Khải
11/07/2011
Bàn về cái thiêng liêng
Lê Phú Khải
Ngày nhỏ đi học lớp 1, lớp 2... cứ mỗi lần được thầy giáo kêu lên bục xóa bảng, hoặc sai đi giặt khăn lau bảng là tôi sung sướng suốt cả ngày hôm đó. Thầy giáo nhớ tên mình, gọi tên mình... Chao ôi là vinh hạnh!
Có lần đi dự đám cưới một người chị họ, tôi gặp thầy giáo cùng đến dự đám cưới. Dù là đứa trẻ vốn tính tình nhút nhát, tôi đã rẽ đám đông đến trước mặt thầy, khoanh tay lễ phép chào: Con chào thầy ạ! Thầy giáo xoa đầu tôi trước hai họ. Tôi hãnh diện vô cùng!
Đã hơn nữa thế kỷ đi qua, vậy mà đến giờ tôi vẫn nhớ cái buổi chiều hôm đó, nhớ như in cái cầu thang mà tôi đã vội leo lên thành cầu để tụt xuống, len đến trước mặt thầy tôi...
Trong con mắt trẻ thơ của tôi, thầy giáo thiêng liêng lắm. Thầy Mạnh Tử ở bên Tàu hơn hai ngàn năm trước từng nói: “Cái phong phú được gọi là cái đẹp”, “Cái cao cả được gọi là cái thiêng liêng” là gì? Vậy thầy giáo của tôi ngày ấy là một người cao cả, vì cao cả nên thầy thật thiêng liêng với học trò.
Thế mà bây giờ thằng cháu nội của tôi lại bĩu môi nói với ông nội nó: Cô giáo của con mới mua xe Attila đó (!). Tôi hiểu ý nó muốn nói: Xe Attila mới mua của cô giáo là tiền bố mẹ nó phải oằn lưng ra đóng góp cho con học thêm, cô giáo bắt nó và bạn bè của nó phải học thêm để cô giáo thâu tiền...
Có lần tôi đã mắng mẹ nó, vì sao cứ phải cho con đi học thêm, trong khi nhà thì túng thiếu. Mẹ nó phân trần: Thằng T (tên thằng cháu tôi) nó bảo, nếu không đi học thêm, cô giáo sẽ tấn công nó trong lớp học. Tôi hỏi: Tấn công là thế nào? Mẹ nó trả lời: Là bắt lên bảng làm toán, rồi đe nẹt, thằng T sợ lắm, khóc đòi mẹ cho đi học thêm. Vì những đứa học thêm không bị cô giáo đối xử như thế. Chữ “tấn công” là từ miệng thằng cháu nội tôi nói ra!
Cô giáo đã hết cao cả thì làm sao còn thiêng liêng được? Một thế hệ con trẻ đi học không có cảm nhận về cái thiêng liêng, lại thấy thầy cô giáo của mình là những kẻ thấp hèn, khi nói đến thầy cô mà bĩu môi ra thì còn gì để nói (!).
Kinh khủng hơn, một lần ngồi ở quán cà phê trước một trường đại học, tôi thấy một số sinh viên gọi thầy giáo là thằng này, thằng kia! Tôi đem câu chuyện này về hỏi thằng con tôi đang theo học một lớp đại học tại chức. Nó giải thích: vì sinh viên phải chung tiền cho thầy giáo mỗi lần thi cử, phải rủ thầy đi nhậu... nên nó xưng hô như thế đó ba ạ!
Chuyện về sự suy thoái của nền giáo dục Việt Nam còn nhiều lắm, nhưng chuyện của ngành y tế thì còn tàn nhẫn hơn. Vừa qua, tại Năm Căn tỉnh Cà Mau, nhân dân đã kéo đến đập phá, đuổi đánh các thầy thuốc ở bệnh viện vì cho rằng họ đã bỏ mặc một bệnh nhân gái 16 tuổi được chở đến cấp cứu, dù gia đình nạn nhân này đã quỳ xuống lạy van, xin các bậc lương y này cứu chữa. Em gái đã chết ở bệnh viện. Khi người dân phẫn nộ kéo tới thì các vị “thầy thuốc như mẹ hiền” này đã hốt hoảng cởi bỏ hết áo trắng trên người để chạy trốn như những lũ chuột bị rắn đuổi!
Có lẽ trong lịch sử ngành y thế giới, chưa có ở đâu diễn ra màn bi kịch kiểu này. Chủ nghĩa “duy lợi” (từ của Hà Sĩ Phu) của ông Marx không có đất sống ở trời Tây, có lẽ vì thế nó vội di trú đến những mảnh đất rừng rú còn sót lại ở Châu Á để nương thân, và Việt Nam là một trong những điểm dừng chân của nó. Tất cả được tính ra “lợi quyền”, lợi lộc, không còn cái gì là thiêng liêng nữa, dù là làm nghề thầy – thầy giáo, thầy thuốc...
Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện hồi còn sống, có lần đã kể cho tôi nghe về tư cách người thầy thuốc. Ông cho biết, ở Pháp, thầy thuốc chỉ được khám bệnh, cho toa (đơn)... không bao giờ được phép chìa tay ra cầm tiền của bệnh nhân. Tiền khám bệnh sẽ được người nhà của bác sĩ thu ở chỗ khác, khi bệnh nhân ra về. Ông giải thích: Nếu bác sĩ cầm tiền từ tay bệnh nhân thì về tâm lý, hình ảnh của thầy thuốc “cứu nhân độ thế” hết thiêng mất rồi. Khi người bệnh đến với thầy thuốc, thì tâm trạng của họ đến với một vị cứu nhân, người đó sẽ đem hết tinh thần cao cả của người thầy thuốc để cứu họ. Chỉ riêng tâm trạng đó đã là liều thuốc tinh thần để người bệnh tự giúp mình khỏi bệnh đến 50%. Vì thế các trường đào tạo thầy thuốc ở Pháp giảng dạy rất kỹ lưỡng rằng, không được để đồng tiền xuất hiện giữa thầy thuốc và bệnh nhân. Dù rằng thầy thuốc vẫn cần tiền để tồn tại.
Vậy mà ở tỉnh X, thầy thuốc bán thuốc cho bệnh nhân. Thuốc còn được nghiền nát ra để bệnh nhân không biết đó là thuốc gì, ở đâu sản xuất... để bệnh nhân không thể so đo đắt rẻ...
Chỉ có hai nghề cao quý được ông bà ta kêu bằng “thầy”.
Dắt đứa con đến cửa nhà thầy, người mẹ ngày xưa nói: Đến ăn mày thầy dăm chữ để cháu làm người!
Ôi sao mà thiêng liêng quá!
Bây giờ cả thầy giáo và thầy thuốc đều lấy học trò và bệnh nhân làm đối tượng để làm tiền thì cái thiêng liêng không cánh mà bay khỏi cái xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mất rồi! Chỉ còn lại sự dối trá vô lương đến lộng lẫy “thiêng liêng” mà thôi!
L.P.K.
Bàn về cái thiêng liêng
Lê Phú Khải
Ngày nhỏ đi học lớp 1, lớp 2... cứ mỗi lần được thầy giáo kêu lên bục xóa bảng, hoặc sai đi giặt khăn lau bảng là tôi sung sướng suốt cả ngày hôm đó. Thầy giáo nhớ tên mình, gọi tên mình... Chao ôi là vinh hạnh!
Có lần đi dự đám cưới một người chị họ, tôi gặp thầy giáo cùng đến dự đám cưới. Dù là đứa trẻ vốn tính tình nhút nhát, tôi đã rẽ đám đông đến trước mặt thầy, khoanh tay lễ phép chào: Con chào thầy ạ! Thầy giáo xoa đầu tôi trước hai họ. Tôi hãnh diện vô cùng!
Đã hơn nữa thế kỷ đi qua, vậy mà đến giờ tôi vẫn nhớ cái buổi chiều hôm đó, nhớ như in cái cầu thang mà tôi đã vội leo lên thành cầu để tụt xuống, len đến trước mặt thầy tôi...
Trong con mắt trẻ thơ của tôi, thầy giáo thiêng liêng lắm. Thầy Mạnh Tử ở bên Tàu hơn hai ngàn năm trước từng nói: “Cái phong phú được gọi là cái đẹp”, “Cái cao cả được gọi là cái thiêng liêng” là gì? Vậy thầy giáo của tôi ngày ấy là một người cao cả, vì cao cả nên thầy thật thiêng liêng với học trò.
Thế mà bây giờ thằng cháu nội của tôi lại bĩu môi nói với ông nội nó: Cô giáo của con mới mua xe Attila đó (!). Tôi hiểu ý nó muốn nói: Xe Attila mới mua của cô giáo là tiền bố mẹ nó phải oằn lưng ra đóng góp cho con học thêm, cô giáo bắt nó và bạn bè của nó phải học thêm để cô giáo thâu tiền...
Có lần tôi đã mắng mẹ nó, vì sao cứ phải cho con đi học thêm, trong khi nhà thì túng thiếu. Mẹ nó phân trần: Thằng T (tên thằng cháu tôi) nó bảo, nếu không đi học thêm, cô giáo sẽ tấn công nó trong lớp học. Tôi hỏi: Tấn công là thế nào? Mẹ nó trả lời: Là bắt lên bảng làm toán, rồi đe nẹt, thằng T sợ lắm, khóc đòi mẹ cho đi học thêm. Vì những đứa học thêm không bị cô giáo đối xử như thế. Chữ “tấn công” là từ miệng thằng cháu nội tôi nói ra!
Cô giáo đã hết cao cả thì làm sao còn thiêng liêng được? Một thế hệ con trẻ đi học không có cảm nhận về cái thiêng liêng, lại thấy thầy cô giáo của mình là những kẻ thấp hèn, khi nói đến thầy cô mà bĩu môi ra thì còn gì để nói (!).
Kinh khủng hơn, một lần ngồi ở quán cà phê trước một trường đại học, tôi thấy một số sinh viên gọi thầy giáo là thằng này, thằng kia! Tôi đem câu chuyện này về hỏi thằng con tôi đang theo học một lớp đại học tại chức. Nó giải thích: vì sinh viên phải chung tiền cho thầy giáo mỗi lần thi cử, phải rủ thầy đi nhậu... nên nó xưng hô như thế đó ba ạ!
Chuyện về sự suy thoái của nền giáo dục Việt Nam còn nhiều lắm, nhưng chuyện của ngành y tế thì còn tàn nhẫn hơn. Vừa qua, tại Năm Căn tỉnh Cà Mau, nhân dân đã kéo đến đập phá, đuổi đánh các thầy thuốc ở bệnh viện vì cho rằng họ đã bỏ mặc một bệnh nhân gái 16 tuổi được chở đến cấp cứu, dù gia đình nạn nhân này đã quỳ xuống lạy van, xin các bậc lương y này cứu chữa. Em gái đã chết ở bệnh viện. Khi người dân phẫn nộ kéo tới thì các vị “thầy thuốc như mẹ hiền” này đã hốt hoảng cởi bỏ hết áo trắng trên người để chạy trốn như những lũ chuột bị rắn đuổi!
Có lẽ trong lịch sử ngành y thế giới, chưa có ở đâu diễn ra màn bi kịch kiểu này. Chủ nghĩa “duy lợi” (từ của Hà Sĩ Phu) của ông Marx không có đất sống ở trời Tây, có lẽ vì thế nó vội di trú đến những mảnh đất rừng rú còn sót lại ở Châu Á để nương thân, và Việt Nam là một trong những điểm dừng chân của nó. Tất cả được tính ra “lợi quyền”, lợi lộc, không còn cái gì là thiêng liêng nữa, dù là làm nghề thầy – thầy giáo, thầy thuốc...
Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện hồi còn sống, có lần đã kể cho tôi nghe về tư cách người thầy thuốc. Ông cho biết, ở Pháp, thầy thuốc chỉ được khám bệnh, cho toa (đơn)... không bao giờ được phép chìa tay ra cầm tiền của bệnh nhân. Tiền khám bệnh sẽ được người nhà của bác sĩ thu ở chỗ khác, khi bệnh nhân ra về. Ông giải thích: Nếu bác sĩ cầm tiền từ tay bệnh nhân thì về tâm lý, hình ảnh của thầy thuốc “cứu nhân độ thế” hết thiêng mất rồi. Khi người bệnh đến với thầy thuốc, thì tâm trạng của họ đến với một vị cứu nhân, người đó sẽ đem hết tinh thần cao cả của người thầy thuốc để cứu họ. Chỉ riêng tâm trạng đó đã là liều thuốc tinh thần để người bệnh tự giúp mình khỏi bệnh đến 50%. Vì thế các trường đào tạo thầy thuốc ở Pháp giảng dạy rất kỹ lưỡng rằng, không được để đồng tiền xuất hiện giữa thầy thuốc và bệnh nhân. Dù rằng thầy thuốc vẫn cần tiền để tồn tại.
Vậy mà ở tỉnh X, thầy thuốc bán thuốc cho bệnh nhân. Thuốc còn được nghiền nát ra để bệnh nhân không biết đó là thuốc gì, ở đâu sản xuất... để bệnh nhân không thể so đo đắt rẻ...
Chỉ có hai nghề cao quý được ông bà ta kêu bằng “thầy”.
Dắt đứa con đến cửa nhà thầy, người mẹ ngày xưa nói: Đến ăn mày thầy dăm chữ để cháu làm người!
Ôi sao mà thiêng liêng quá!
Bây giờ cả thầy giáo và thầy thuốc đều lấy học trò và bệnh nhân làm đối tượng để làm tiền thì cái thiêng liêng không cánh mà bay khỏi cái xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam mất rồi! Chỉ còn lại sự dối trá vô lương đến lộng lẫy “thiêng liêng” mà thôi!
L.P.K.
Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2011
MƯỜI NĂM TRỊNH CÔNG SƠN- CAO HUY THUẦN
Dưới đây, chúng tôi trích đăng 5 lời giới thiệu ngắn viết cho chương trình đêm hát của anh Cao Huy Thuần. Huế và Khánh Ly là trọng tâm của các lời giới thiệu.
Lời 1: Tiếng hát Khánh Ly
Thưa Quý Vị,
Thưa các anh chị,
Tôi rất hân hạnh đã được nhiều lần gặp gỡ các anh chị để cùng nhau chia sẻ cảm tình chung đối với TCS. Với thời gian và tuổi tác, đáng lẽ tôi không nên lên sân khấu nữa. Vậy mà lại cũng phải lên, lần này không phải chỉ vì TCS. Chính là vì Khánh Ly.
Cho đến hôm qua, tôi chưa bao giờ gặp Khánh Ly. Nhưng, với Khánh Ly, đâu có cần gặp mới quen. Giữa chị, và công chúng yêu mến chị, không phải chỉ có giọng hát. Còn có cả một chiều sâu lịch sử. Một lịch sử oai hùng. Một lịch sử thương đau. Một lịch sử Điện Biên. Một lịch sử Plei Me, Chu Prong. Một lịch sử đầy tình ca, kể cả tình ca người mất trí. Một lịch sử vang vọng tiếng ru, kể cả đại bác ru đêm. Lịch sử đó nằm không phai trong tim. Cho nên trong tim ai cũng có Khánh Ly.
Đối với riêng tôi, hơn thế nữa, Khánh Ly không phải chỉ là giọng hát lịch sử. Chị còn là người viết văn. Chị viết văn rất hay. Nhiều lần tôi tự hỏi : tôi cảm động vì chị, không biết có phải vì giọng hát hay vì lời văn. Tôi nói thế, không phải là để bốc chị lên thành văn sĩ. Tôi nói, là vì một ý nghĩ mà tôi chắc không sai : phải là một người biết vui buồn với cây bút mới thấm được lời ca của TCS và mới truyền được cái chất thơ ấy qua giọng hát. Có thể mỗi người mê giọng hát của Khánh Ly một cách khác nhau. Nhưng chắc ai cũng thấy giọng hát của chị đặc biệt ở một chỗ bí truyền của TCS : chị hát rất rõ lời, mỗi chữ là mỗi tiếng sỏi rơi vào hồ nước. Giọng hát ấy và lời thơ ấy gặp nhau, đâu có phải chỉ vì chị là ca sĩ ? Đâu có phải tình cờ ? Ấy còn là văn chương gặp văn chương.
Tôi còn thêm một lý do nữa để cảm nhận thấm thía giọng hát của Khánh Ly. TCS là người duy nhất lên sân khấu với giọng Huế. Có lẽ tôi là người thứ hai, nhưng may cho các anh chị là tôi không hát. Huế là nguồn cảm hứng bất tận của TCS, là mẹ, là người yêu, là mơ mộng, là chiếc nôi. Mỗi chữ của TCS đều là Huế. Cho nên phải thấm cái chất Huế đó của TCS mới giao hoan được với lời hát của anh. Mà Khánh Ly … Có lẽ kiếp trước chị lọt lòng đâu đó ở Huế cho nên kiếp này chị mới tình tự được với Huế như thế này :
"Tôi là gái Bắc, lớn lên ở Sài Gòn, nhưng lạ lùng làm sao, tôi không nhớ Hà Nội bao nhiêu, không yêu Sài Gòn lắm. Mà chỉ xót xa đến Huế … Vậy mà tôi yêu Huế … Dù tôi chỉ biết Huế sau Tết Mậu Thân và không quá mười lần ghé Huế. Nhưng tôi yêu Huế bởi vì từ Huế tôi mới biết thế nào là tình yêu."
Các anh chị thân mến, nhan đề của đêm hát hôm nay là "Mười năm với TCS". Tôi nghĩ : không ai với TCS bằng Khánh Ly. Họ đã hòa quyện với nhau trong tiếng hát. Họ đã cùng hiến hai cuộc đời thanh xuân của nhau để cùng tạo dựng chung huyền sử của một thời đại, trong đó cái chết và tình yêu là hai nhân vật không rời nhau - chết trần truồng mình không manh áo nhưng nằm chết như mơ.
Chất thơ, chất Huế, cái chết, tình yêu … Khánh Ly sẽ mang lại cho chúng ta tất cả không khí đó, bắt đầu bằng mưa Huế trong ba bài mưa. Mưa Huế là mưa dầm, nhưng mưa Huế trong TCS không phải vậy, đôi khi là mưa hồng, vì mưa ươm nắng, đôi khi là mưa bốn mùa, và không phải do ý trời mà do mệnh lệnh của Người - của một Người mang cái tên duy nhất trong TCS là Em.
Lời 2: Bàn chân dưới mưa
Khi nãy, tôi vừa nói với các anh chị rằng tôi rất lấy làm tiếc cho các anh chị là tôi sẽ không hát. Không hát thì đọc vậy. Lời của TCS hát cũng hay mà đọc cũng hay. Tôi xin đọc một bài để làm ví dụ : bài "Cho đời chút ơn". Tôi đọc một đoạn nhỏ, đoạn TCS ngắm một người đẹp đi bên kia phố. Anh thấy anh đi theo, theo từng gót chân, như chiếc lá bay theo, như giọt nắng bay theo :
Tôi tìm thấy tôi như giọt nắng kia
Làm hồng chút môi cho em nhờ.
Môi thiên đường / Hót chim khuyên
Ôi tóc trầm / Ướp vai thơm
Ta nghe đời / Rất mênh mông
Trong chân người / Bước chầm chậm.
Một bài hát ca tụng người đẹp. Ai cho đời chút ơn ? Những người con gái xinh đẹp. Ơn gì ? Mang lại cái đẹp cho cuộc đời, như mùa xuân đem mơn mởn cho vũ trụ.
Bài hát là một bức tranh vẽ người đẹp tiêu biểu trong TCS. Có môi, mà lại là "môi thiên đường". Có tóc, có vai, vai đã thơm mà còn được ướp thêm mùi trầm của tóc. Có tà áo phơn phớt nắng bình minh. Cả người là phấn thơm, thơm cả khu rừng. Nhưng … nhưng … tất cả những cái đẹp đó đều quỳ xuống để muôn tâu một nhan sắc chỉ riêng có trong TCS : hai bàn chân. Người đẹp trong TCS là đẹp ở bàn chân. Bởi vì, trong bước chân ấy, ngự giá một cái đẹp lạ lùng. Cái gì ? Cái "chầm chậm". "Dù em khẽ bước không thành tiếng / Cõi đời bao la vẫn ngân dài". Người con gái bước đi chầm chậm để mang trong hai bàn chân tất cả "mênh mông" của cõi đời.
Tôi không dám nói đây là bức tranh Huế ngày xưa - nghĩa là của thời TCS, thời chúng tôi. Thế nhưng có một người cứ thành khẩn quả quyết đó là bức tranh Huế. Người đó là Khánh Ly. Tôi lại đọc Khánh Ly :
GS. Cao Huy Thuần (trước) và ca sĩ Khánh Ly (sau)
"… Vậy mà tôi yêu Huế. Con gái Huế nói như hát, dịu dàng, đi đứng khép nép, nhẹ nhàng. Có một cái gì đó thật mong manh, như tơ, như sương khói, như một điều không có thật trong con người của các cô gái Huế. Tôi có cảm tưởng như họ không phải là một sự hiện hữu. Một chút hương khói hư ảo, chập chờn. Chỉ một tiếng động khẽ, dù là tiếng rơi của một chiếc lá, cũng đủ làm tan biến đi tất cả … Như thế là yêu đấy, mà lại yêu nhiều mới khổ chứ".
Không phải cô gái Huế nào cũng vậy, anh chị đừng lầm mà bán nhà. Nhưng đúng đó là mẫu người đẹp trong TCS. TCS vẽ người đẹp, tương đối ít khi vẽ môi. Có : "Nắng có hồng bằng đôi môi em / Nắng có còn hờn ghen môi em". Có : "Một hồn yếu đuối / một bờ môi thơm". Có : "Môi em cho ta một cánh hồng / Lụa là phút ấy chưa quên". Có, kể cả những "môi đốm lửa", "môi lửa cháy", "môi rồ dại" chen lẫn với "môi hồng nhạt", "môi hồng đào". Có, nhưng lạ quá, thi sĩ của tình yêu gì mà ít khi cho người ta hôn nhau. Mà hễ hôn là hôn rất bi thảm : "Có chút lệ nhòa / Trong phút hôn nhau". Hôn, là lúc bắt đầu và cũng là lúc chấm dứt tình yêu. Bởi vì, "đã có nghìn trùng / trên môi người tình / đã dấu nụ tàn / bên trong nụ hồng / có chớm lạnh lùng / trên môi nồng nàn". Cho nên, môi ấy, khi hôn nhau lần đầu đã thấm mùi vị của hôn nhau lần cuối. "Đời sẽ buồn như một chiều nao / Hôn nhau lần cuối hôn nhau lần đầu. Đời sẽ là chưa vội tình sâu / Hôn nhau lần cuối hôn nhau lần đầu".
Đôi môi không phải là vương quốc trong tranh TCS. Thua cả vai gầy. Thua cả mắt xanh xao. Thua cả bàn tay, "bàn tay trau chuốt cho thêm ngàn năm". Thua cả năm ngón tay, năm ngón tay "xuân nồng", "năm ngón tay thiên thần ru vào cô đơn". Và thua xa, tất nhiên thua xa, làm sao sánh được, với đôi bàn chân ! TCS đem ngai vàng từ trên đôi môi của thiên hạ xuống dâng cho hai bàn chân không bao giờ vội vàng. Không bao giờ vội vàng, vì lúc nào cũng như thầm thì nói chuyện. Nhất là nói chuyện với mưa, "mưa thì thầm dưới chân ngà". Đó là bàn chân dưới mưa của Diễm trong Diễm Xưa, mà Khánh Ly đã từng ca tụng với tất cả thần cảm của một tâm hồn thấm hiểu điệu vui, điệu buồn, điệu lãng mạn, điệu nhớ nhung của mưa Huế, điệu liêu trai nơi nét đẹp mà TCS gọi là nét đẹp hoàng cung.
Lời 3: Dù đến rồi đi
Khi nãy, tôi đã nói về bàn chân như là hoàng hậu của tất cả nhan sắc. Bây giờ, tôi xin nói thêm : bàn chân và bước chân là linh hồn trong những bài hát hay nhất của TCS. Chẳng hạn bài "Tình Nhớ" :
Những bước chân mềm mại / Đã đi vào cuộc đời /
Như từng viên đá cuội / Rớt vào lòng biển khơi.
TCS đã dùng bàn chân để nói về tình yêu. Bởi vì bàn chân là để đi. Mà đi, có thể là đi xa, cũng có thể là đến gần. Đến gần, rồi đi xa : thế là tình yêu. Bàn chân là bước đi của tình yêu, là tình yêu được linh hồn hóa.
Bên nhà vừa in một cuốn sách với mấy trăm bức thư tình của TCS. Đọc thì cũng vui vui, nhưng đối với một người nghệ sĩ, con người thực không phải là con người xương thịt, mà là con người trong sáng tác. Họ khóc cười trong sáng tác. Họ thở than trong sáng tác. Và họ yêu trong sáng tác. Thư riêng của TCS có thể làm cho người đọc hiểu thêm chút nào về tâm trạng của TCS trong một quãng thời gian nào đó, nhưng đó chỉ là tình yêu của TCS đối với một người, không phải là tình yêu nói chung. Khi nói rằng TCS là thi sĩ của tình yêu thì chỉ có một TCS ấy thôi, là TCS trong những bài hát. Và trong những bài hát thì tình yêu là vậy đó, không có tên của một người con gái nào, chỉ có những bước chân, những bước chân của đi và của đến, phần nhiều là của đến và của đi.
Tôi lại xin đọc một bài, một bài hay, rất đơn giản và rất hay, bài "Hoa vàng Mấy Độ" :
Đây là đến : "Em đến bên đời / Hoa vàng một đóa / Một thoáng hương bay / Bên trời phố hạ / Nào có ai hay / Ta gặp tình cờ".
Và đây là đi : "Em đến nơi này / Bao điều chưa nói / Lặng lẽ chia xa / Sao lòng quá vội / Một cõi bao la / Ta về ngậm ngùi".
Một người đi, một người về. Và đây là nhớ nhung đau buốt của người về : "Trong lòng nỗi nhớ / Ngày tháng trôi qua / Cơn đau mịt mù ".
Còn gì lại sau cuộc đến và cuộc đi ? "Một vết thương thôi / Riêng cho một người".
Tình yêu là vậy thôi, cực kỳ đơn giản. Là vậy thôi, một bước chân. "Ngày nào vừa đến / Đã xa muôn trùng / Ngày nào vừa đi / Lạnh lùng bước chân".
Trong những bước chân đó, có những bước chân rất tàn nhẫn. Đó là bước chân phụ bạc :
"Hai mươi năm xin trả nợ dài / Trả nợ một đời em đã phụ tôi
Em phụ tôi một thời bé dại / Thơ dại ra đi không nhớ gì tôi
Thơ dại ra đi quên hết tình tôi".
Có những bước chân tàn nhẫn hơn nữa. Đó là bước chân gian dối :
"Tình khâu môi cười / Hình hài xưa đã thay / Mặn nồng xưa cũng phai /
Tình chia nhau gian dối / Tình đày tình đôi nơi".
Tình yêu là vậy, trong TCS của chúng ta. Bao giờ cũng vậy, "Từ lúc đưa em về / Là biết xa nghìn trùng".
Vậy thì kết luận là thế nào trong cuộc chơi mà một người đã để lại vết thương cho một người? Một lời nói đã bay trong gió ? Một "tuổi đá buồn" ngồi lại làm đá ngây ngô ?
Giải pháp thông thường nhất là quên. Nhưng đâu có dễ quên ?
"Tình ngỡ đã quên đi / Như lòng cố lạnh lùng
Người ngỡ đã đi xa / Nhưng người vẫn quanh đây".
Quên không được, mà nhớ thì khổ. Chỉ có một môn thuốc thần này mà thôi, tôi nghĩ chúng ta nên bắt chước TCS : hãy "tạ ơn". Tạ ơn những bước chân đến. Tạ ơn cả những bước chân đi. Dù phụ bạc. Dù gian dối :
"Dù đến rồi đi / tôi cũng xin / tạ ơn người / tạ ơn đời /
Tạ ơn ai / đã cho tôi / tình sáng ngời / như sao xuống từ trời"
Từ đó mà ai hát TCS cũng thấy trong tiếng hát một con người nhân ái, nhân hậu, độ lượng. Dù em phụ bạc, tôi vẫn ru em ngàn năm, ngàn năm, như Khánh Ly sẽ ru với "Tuổi đá buồn", "ngàn năm ngàn năm, ru em muộn phiền ru em bạc lòng". TCS yêu cuộc đời, nhưng cũng biết cuộc đời là ảo tưởng. TCS yêu tình yêu, nhưng cũng biết tình yêu là ảo tưởng, có đấy rồi không đấy. Chỉ có một tình yêu bất tận mà thôi, có đến và không hề đi : đó là tình yêu nghệ thuật. Tình yêu đó đã khiến TCS viết được câu máu thịt thế này : "Khánh Ly, một người bạn của định mệnh, vĩnh viễn thương yêu nhau".
Lời 4: Vũ trường và đại bác
Năm 1965, TCS đã thấy những dấu vết đầu tiên của chiến tranh nơi thành phố : xác chết phơi ven đường, phụ nữ đi tìm xác, trực thăng chở thương binh, thanh niên chạy trốn lính … Anh bắt đầu trực nhận và viết ra những "phi lý", "vô nghĩa", "vô lý cùng cực" của chiến tranh. Bài "Xin Mặt Trời Ngủ Yên" được hát vào năm đó, mang một chút hơi hướng của chinh chiến vào lời ca :
"Ôi chinh chiến đã mang đi bạn bè / Ngựa hồng đã mỏi vó / Chết trên đồi quê hương /
Ôi quê hương thần thoại / Thuở hồng hoang đã thấy / đã xanh ngời liêu trai".
Chinh chiến sẽ đưa quê hương vào thuở hồng hoang ? Câu hát chưa rõ nghĩa lắm. Nhưng câu sau đã bắt đầu nói lên nhân tính trước nguy cơ hủy diệt :
"Ôi nhân loại / mặt trời / và em thôi / này đôi môi xin thương người /
Ôi nhân loại / mặt trời trong tôi".
Một ly kỳ của "văn hóa" Sài Gòn ngày xưa : bài hát có mùi thuốc súng lại được phổ biến lúc đầu trong các vũ trường. Tôi vinh danh sự ly kỳ lịch sử đó ở đây, vì chính trong thế giới vũ trường mà TCS bắt gặp tiếng hát của định mệnh để đưa tiếng hát đó chào đời với Ca Khúc Da Vàng.
Đó là năm 1965, TCS 26 tuổi, đang yêu và được yêu, đang là một con đôm đốm mời được một ngôi sao xuống đất để cùng mình thắp sáng cả địa cầu. Nhưng chuyện thần tiên của con đôm đốm với ngôi sao bao giờ cũng kết thúc vào buổi sáng mai : sao bay lên trời và đôm đốm trần truồng sâu đất. TCS mang tuyệt vọng vào vũ trường và ở đấy anh gặp tiếng hát. Giá như chiến tranh không ập tới, không chừng TCS cứ mãi ướt mi với những Mỵ Nương. Nhưng chiến tranh đã nâng tầm vóc của anh lên cao, đã biến tình ca của anh thành thánh ca của hòa bình, đã làm con đôm đốm thành TCS.
Tiếng hát bắt gặp cùng lúc với chiến tranh là Khánh Ly. Đêm 20-3-1965, ở Đà Lạt, anh ngồi nghe Khánh Ly hát một bài ướt đẫm lãng mạn, rất nổi tiếng ở Việt Nam hồi đó, bài "Et j'entends siffler le train". Đó là một trong hai bài hát đã làm TCS thổn thức canh trường trong suốt một quãng đời thơ dại, "thơ dại ra đi không nhớ gì tôi".
Bài hát kia, cũng đầm đìa nước mắt, là bài "J'irai pleurer sous la pluie". Trong bài hát, có anh chàng si tình, chờ mưa để đứng dưới mưa mà khóc. Tại sao phải khóc dưới mưa ? Tại vì để giấu nước mắt. Tôi dịch bài hát để các anh chị hiểu và sống lại cái thời lãng mạn của TCS ngày xưa, nghĩa là của chúng ta, cái thời mà ai cũng đã từng "lên xe tiễn em đi" và "khóc đi em, khóc đi em, khóc đi em" :
Nếu anh muốn khóc
Anh sẽ giấu em
Vì anh tự phụ
Không muốn em thấy
Giọt buồn đời anh
Dưới mưa anh khóc.
Anh đợi mưa đến
Anh đợi cơn giông
Nước mắt nước mưa
Dưới mưa anh khóc.
Anh vẫn yêu em
Nhưng em đâu thấy
Giọt buồn đời anh
Dưới mưa anh khóc.
Mưa rơi trên mặt
Nhưng đâu xóa được
Kỷ niệm của em
Em đâu biết anh
Yêu em tha thiết
Em đâu biết em
Làm khổ đời anh.
Nhưng anh sẽ đi
Cười vui trong nắng
Mặt trời tháng năm.
Ngày ấy thương ôi
Bây giờ chưa đến.
Số phận đời anh
Còn trong tay em
Và anh sẽ chờ
Dưới mưa anh khóc.
Bài trước, "Et j'entends siffler le train", thì các anh chị thuộc quá rồi. Nhưng tôi cũng xin dịch để chảy thêm chút nước mắt nữa với các người tình khốn khổ :
Lòng anh nghĩ, em yêu, thà như thế
Thà xa nhau không lời tiễn biệt nhau
Lòng anh đau, gặp làm gì nhau nữa
Nhưng, em yêu, tiếng còi tàu đang thét
Buồn bao nhiêu còi giữa đêm thâu.
Anh nghĩ đến em, một mình, quạnh quẽ
Trên sân ga, giữa người vẫy tay nhau
Và anh nghe tiếng còi tàu đang thét
Buồn bao nhiêu còi giữa đêm thâu.
Anh toan chạy đến em, toan gọi tên tha thiết
Nhưng đành im, nói chẳng nên lời
Em đã xa rồi, em xa anh quá
Có bao giờ em trở lại em ơi !
Lòng anh nghĩ, em yêu, thà như thế
Thà xa nhau không lời tiễn biệt nhau.
Nhưng giờ đây, ôi, còn gì đâu nữa
Còn gì đâu khi tình đã xa khơi.
Và anh nghe tiếng còi tàu đang thét
Suốt đời anh tiếng còi thét, em ơi !
Khánh Ly đang ở sau màn và chắc đang nghe tôi đọc thơ tình. Nếu các anh chị muốn, tôi đề nghị Khánh Ly vui lòng hát lại một bài hát ngày xưa, để nhớ lại kỷ niệm 56 năm về trước, để 56 năm với TCS.
Các anh chị hãy tưởng tượng : nhà hát này là một vũ trường, một trong những dạ khách ngồi kia là TCS, và xa xa vọng về tiếng đại bác, ru đêm và ru tiếng hát Khánh Ly.
Lời 5: Hòa bình
Các anh chị thân mến,
"Khi đất nước tôi thanh bình" là câu đầu của bài "Tôi sẽ đi thăm". TCS tuyên bố sẽ đi thăm hầm chông, mộ chí, nghĩa địa, kể cả mã tấu. Và anh tuyên bố thêm : "Khi đất nước tôi không còn giết nhau / Trẻ con đi hát đồng dao ngoài đường".
Khi lấy câu hát đầu của bài hát này để làm nhan đề cho Phần 2 của chương trình đêm nay, tôi có nghe một ý kiến, nói rằng bài hát này ngây thơ quá, vẽ ra một TCS quá ngây thơ. Trời ơi ! - tôi nói - Có gì đẹp bằng ngây thơ ! Ta thường ca ngợi : một đôi mắt ngây thơ, một vầng trán ngây thơ, một nụ cười ngây thơ … Vậy thì một lời hát ngây thơ của một bài đồng dao ngây thơ là quá đẹp đi chứ !
Mà chắc gì TCS ngây thơ ! Chắc gì có ai định nghĩa "hòa bình" đúng hơn hình ảnh "trẻ con đi hát đồng dao ngoài đường" !
Tôi xin phép các anh chị được làm một cụ đồ nghiêm túc, khắc khổ - nghĩa là trái ngược với ngây thơ - để định nghĩa chữ "hòa bình" theo lối chiết tự. Chữ "hòa" có bộ khẩu bên phía phải. Khẩu là cái miệng. Trước hết, cái miệng phải cần ăn. Hòa bình là tình trạng dân chúng ai ai cũng có đủ cơm mà ăn. Nhưng cái miệng không phải chỉ biết ăn. Nó còn biết nói. Cấm nói, ấy không phải là hòa bình rồi. Hòa bình là tình trạng ai ai cũng có thể nói lên được điều mình mơ ước. Chưa hết, cái miệng không phải chỉ biết ăn, biết nói, mà còn biết hát nữa. Cấm hát, cam đoan cả vũ trụ này sẽ nổi loạn, trước hết là chim chóc, trước hết là rừng thông, trước hết là giọt mưa trên lá. Ấy vậy mà hát TCS, chỗ này chống, chỗ kia đối, chỗ nọ xì xào, da vàng da đỏ. Hòa bình chỗ nào ?
Chiến tranh chấm dứt rồi. Điều đó không có nghĩa rằng hòa bình không còn là giấc mơ.
Cám ơn các anh chị, tôi xin chấm dứt nhiệm vụ mua vui của tôi ở đây.
CAO HUY THUẦN
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)