Thứ Năm, 25 tháng 3, 2010

Từ ngõ Huế xưa-Trần Kiêm Đoàn

TỪ NGÕ HUẾ XƯA – Trần Kiêm Đoàn

Không ngờ rồi sẽ có ngày một chú bé quê lại được vào trường Quốc Tử Giám.
Tôi được vào học lớp đệ thất trường Hàm Nghi Huế năm 1958. Thỉnh thoảng vào những buổi sáng sắp hàng chào cờ thầy hiệu trưởng Hồ Văn Lê và thầy tổng giám thị Lê Hiếu Kính vẫn nhắc nhở rằng, nơi chúng tôi đang đứng là trường Quốc Tử Giám ngày xưa. Quốc Tử Giám là trường Đại học Quốc gia đầu tiên xây dựng ở thành Thăng Long Hà Nội vào năm 1076 và trường “Đại học Quốc gia” này được xây dựng ở Huế vào năm 1821 dưới triều vua Minh Mạng. Quốc Tử Giám là trường dành riêng cho con vua cháu chúa đến học. Gần một thế kỷ rưỡi sau, khi con cháu của hàng dân dã như chúng tôi bước đến vùng đất một thuở Hoàng triều nầy, thì Quốc Tử Giám uy nghiêm ngày xưa chỉ còn là tên gọi.
Di Luân Đường, tên ngôi nhà lớn ở giữa làm đại giảng đường thời cổ, nay trở thành nơi thờ phụng đức Khổng Tử và viện nghiên cứu Hán Học. Ba dãy nhà làm cư xá cho các hoàng thân, cậu ấm xưa kia, nay được dùng làm phòng học của chúng tôi và văn phòng của nhà trường. Rồi bốn năm Quốc Tử Giám êm đềm đi qua. Những cậu bé quê cũng học được chút ít văn minh thành phố. Ít ra thì đầu óc chân tay cũng nhạt bớt chất phèn của “quê hương em nước mặn đồng chua”, lên được hàng “trình độ văn hóa đít lôm” đủ làm kẻ sĩ miệt đồng.

Sau Hàm Nghi là Quốc Học. Trường Quốc Học Huế cũng mang trên mình một lịch sử le lói không thua gì Quốc Tử Giám. Quốc Học vừa “oai” vì có cái tên rất sang; lại vừa có một lịch sử vang bóng như những dấu ấn chói mầu son của chốn Hoàng triều cương thổ. Được xây dựng từ năm 1896 dưới triều vua Thành Thái với cái tên Pháp Việt đề huề là Lycée Khải Định. Lần đầu tiên, nơi chốn đế đô thâm nghiêm, truyền thống “kỵ húy” khắt khe đến mức tên thê thiếp của nhà vua cũng không dám gọi thẳng, thế mà lại lấy tên một ông vua ra đặt tên trường không khác gì ở Paris. Đây là nơi dành riêng cho con cái của các hoàng thân, quốc thích và quan lại đến học. Trường Quốc Học đã là lò đào tạo nhân tài của hai thế hệ Tiền chiến và thế hệ Chiến tranh Việt Nam trong cả nước.

Tôi học lớp đệ tam, được đeo “một quèo” ở biển tên màu xanh may trên ngực áo sơ mi trắng. Học trò đệ tam Quốc Học là hàng lính mới tò te, nên phải biết e dè và khiêm tốn đi về ngày hai buổi trên con đường trái tim chất ngất ân tình nhất của Huế. Đó là con đường Lê Lợi dọc sông Hương, từ Đập Đá lên ga Huế. Nhưng khi đến trường Đồng Khánh và Quốc Học con đường bỗng mất tên, biến dạng, quên cả tuổi đời, đổi áo nhân gian để trôi vào ảo ảnh. Đường sẽ mang tên: Con đường áo trắng, đường phượng bay, đường mang tên em, đường áo tím, đường tình sử, đường tôn nữ… Tên mỗi con đường mang ý nghĩa riêng đối với một người, một thuở, nhưng cái chung của nó vẫn là nét đẹp không tàn phai.

Cái tự nhiên, xuềnh xoàng từ trong bản chất của gã học trò miệt đồng như tôi thường xuyên bị đánh thức. Cứ mỗi sáng thức dậy, chuẩn bị sách vở đến trường, nghĩ đến khi đạp xe qua cầu Trường Tiền, quẹo phải, ngang qua trường Đồng Khánh phải xông pha phơi mình giữa một rừng áo trắng, tóc thề, và những đôi mắt hải đăng ẩn mình sau nón lá là tôi phải “dọn mình” cho gọn gàng tươm tất. Quệt thêm một chút nước lạnh chải đầu cho gọn. Lấy bộ áo quần xếp nếp thẳng tưng dằn dưới phản ngủ suốt đêm ra mặc. Nếu không đi học trên đường phượng bay, ngang qua trường Đồng Khánh có lẽ đời tôi sẽ đơn giản hơn. Rồi đến những mùa thi, tương lai xa vời vợi, tôi ít nghĩ tới hơn là siêng năng hé cửa nhìn trộm cô bé Đồng Khánh học cùng cấp lớp bên cạnh nhà. Tôi dại dột không dám thổi đèn ngủ sớm hơn, nếu ánh đèn nhà bên chưa tắt, mặc dù tôi đã ngáp dài, ngáp ngắn, cố vật lộn với cơn buồn ngủ cứ níu tôi về với thực tại. Tôi tưởng tượng quả đất sẽ quay ngược chiều nếu ngày treo bảng tú tài mà cô bé đậu còn tôi rớt. Thế mà năm sau cô bé đậu còn tôi rớt kỳ đầu thiệt tình. Tôi chẳng dám nhìn ai và dĩ nhiên là không dám nhìn cô bé đã lên “bà tú”, rồi lặng lẽ cuốn gói rời nhà trọ về làng bế môn gạo bài thi kỳ 2.

Hỏng thi là một biến cố của đời học trò bất kỳ ở đâu. Nhưng đối với học trò Quốc Học chúng tôi thì hỏng thi tú tài là “đệ nhất buồn” vì có ngôi trường Đồng Khánh bên cạnh. Cái nhìn ghẻ lạnh hay thương hại của người đẹp đối với người thua cuộc sẽ nhức buốt như một bản án tuyệt tình không công bố đối với kẻ sa cơ.

Trường Đồng Khánh ảnh hưởng lên con dân Quốc Học như thế nào thì quả là khó mà lường được. Nhưng tôi đã nghe một thằng bạn thuộc loại đẹp trai, con nhà giàu, học… lếu long trọng phát biểu về nữ sinh trường Đồng Khánh như sau:

- Dân Đồng Khánh dễ sợ chi lạ, nói không “ngạ”!

Cách diễn tả thuần Huế như vậy là một lọai “công án” Huế; một sự đem nghìn trùng về giữa hư không. “Dễ sợ” là một khái niệm cực tả mà mọi quy ước của ngôn ngữ đều bất chấp hình tướng, không bị giới hạn bởi kích thước của sự ví von, cân đo đong đếm. Đó là một cảm nhận gần với tuyệt đối, mạnh hơn cả một chùm tiếng “rất”. Rất, rất, rất… đẹp sẽ không đẹp bằng “đẹp dễ sợ!”. “Ngạ” cũng là khái niệm của vô biên. Nói không ngạ là không thể nào nói hết ra bằng lời. Cách nói Huế là cách nói bằng cảm nhận. Nói hơi, nói bóng, nói một vầng mây bay qua thay cho lời trần tình về mơ ước tình yêu chan chứa cả bầu trời xanh; nói “sợ mạ la” thay cho một sự gật đầu hò hẹn. Ngôn ngữ giàu cảm xúc nhất của Huế là nói mà không cần hiểu hay hiểu cách nào cũng được. Chỉ cần cảm nhận “như rứa” và thấy hay. Cái hay không qua ngõ ngách của phân tích và lý luận mà đi thẳng vào cảm quan người nhận như lời nhạc mang chất thơ dễ cảm nhưng khó hiểu của Trịnh Công Sơn. Dễ cảm mà khó nhận như một lần qua bến đò Thừa Phủ chiều mưa, vắng vẻ và cảm thấy buồn. Nỗi buồn vô lý, vô duyên và vô cớ cứ lất phất bay từ đầu sông tới cuối bến. Qua đò, không cần biết có ai chờ ai, ai nhớ ai, ai con nhà ai và ai đã vắng, nhưng vẫn có nổi cảm xúc mênh mang chực chờ đâu đó. Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai!

Riêng tôi, suốt ba năm học Quốc Học, ngày lại ngày đạp xe đi học qua trường Đồng Khánh, nhưng chưa bao giờ có dịp dừng lại trước cổng trường vôi hồng pha sắc tím đó. Lý do tôi không dám lân la bén mảng đến trường Đồng Khánh vì thuở học trò, tôi cảm thấy Đồng Khánh cả người lẫn ngựa đều mang một vẻ gì vừa sang, vừa đẹp, không hợp với bản chất nông dân chất phác của mình.

Dân Đồng Khánh đẹp nhất là dáng vẻ bên ngoài. Mặt mũi nội dung ra sao chưa biết, nhưng với cái vóc dáng thanh thanh, khoác lên chiếc áo dài tha thướt, quần dài trắng tinh tươm, thanh khiết, nuột nà; với dãi tóc mây đen tuyền, mọc ra từ chiếc nón lá trắng ngà, óng mượt phủ lên lưng, chảy xuống bờ vai và uốn lượn với gió đã tạo nên những huyền thoại về “cô gái sông Hương”.

Hình như những dáng vẻ thanh nhã như vậy thường hứa hẹn một khuôn mặt không diễm kiều thì cũng rất thơ, e ấp núp dưới pháo đài là cái bóng vạn lý của chiếc nón lá và dãi quai nón có hình dáng và mầu sắc nói nhiều hơn cả vài trang tiểu sử. “Người lịch sự không ngoái cổ nhìn lui”, tôi biết vậy nên họa hoằn lắm mới dám liều lĩnh quay nhìn lui một khuôn mặt tưởng đâu đã yên thân sau vành nón. Đi xe đạp nhìn lui một nàng tuyết trắng Đồng Khánh, tôi thường ít sợ bị mắng “ba nhe” hơn là cảm giác vỡ mộng nếu lỡ bắt gặp một khuôn mặt được dựng lên trong phút đãng trí của “bà Mụ bắt lầm”!

Dân Đồng Khánh thường làm cho dân Quốc Học chúng tôi không ít chàng bỗng thành nghệ sĩ, thi nhân, lãng tử và đôi khi cũng thành anh hùng thật bụng và anh hùng... vớ vẩn, chỉ vì từ buổi có em. Người Đồng Khánh còn có khúc “mê hồn ca” vì giọng nói, tự nhiên cũng nhiều mà làm điệu cũng không phải là ít. Âm vang tuổi thanh xuân tròn và ngọt lịm của giọng nữ có sức lay động đã dành, nhưng cách dùng từ nhẹ nhàng, chọn lọc và quý phái của giới nữ sinh thành phố Huế cộng với nghệ thuật diễn cảm gợi hồn như thì thầm, cắn môi, nheo mắt, bỏ lửng, đam mê, đăm chiêu, hờn dỗi, lạnh lùng... còn làm cho dân Huế ngoại vi thành phố như tôi đủ ngẩn ngơ bạt vía; nói chi đến những chàng trai xứ Quảng mướt mồ hôi trèo đèo, lặn lội… ra thi!

Ai đã chọn ngôi nhà sát nách trường Quốc Học để dựng lên trường Đồng Khánh quả là một thiên tài đầy lãng mạn về khoa phong thủy và nghệ thuật.

Nếu đứng quay lưng về phía núi Ngự Bình, nhìn ra sông Hương trước mặt, sẽ có “Nam tả” là trường Quốc Học và “Nữ hữu” là trường Đồng Khánh. Hai ngôi trường mang thế cực dương và cực âm tạo thành một cặp đôi “âm dương bình hành” qua gần cả một thế kỷ lịch sử học trò. Chắc chắn là hình ảnh cô nữ sinh Đồng Khánh sẽ không nên thơ đến mức huyền thọai như thế nếu trên đường Lê Lợi bên bờ sông Hương không có bóng dáng của những chàng trai Quốc Học: Vắng chàng, vàng rơi nỏ tiếc!

Ngày kỷ niệm Quốc Học 100 tuổi và Đồng Khánh 79 tuổi, tôi có cảm tưởng như đây là ngày tình sử “Bách niên giai lão” của hai ngôi trường “cặp đôi” – Vẫn mãi mãi là cố nhân – dẫu cho “Cây đa bến cũ con đò khác đưa”!

Xa quê hương, cũng có nghĩa là xa Huế, xa Quốc Học Đồng Khánh, xa những mảnh đời ngọt ngào và cay đắng… mà tất cả đã thành kỷ niệm nằm sâu trong những ngăn ký ức. Có những lúc thật bất chợt, ngăn ký ức bật nắp và cơn lũ của hoài niệm cuồn cuộn cuốn phăng những dòng suy tưởng cho suối nguồn tình cảm kéo những nỗi buồn vui đi về đâu xa tắp. Như sau cơn lụt có những bờ đất trầm lỡ, dăm mảnh đất mang một hình hài mới nhưng đây đó vẫn còn lại dấu vết của ngày xưa. Nơi đây, quê người, nếu giờ nầy là 5 giờ chiều ngày thứ năm sắp tan sở ở Cali thì bên tê, Quốc Học Đồng Khánh là 7 giờ sáng ngày thứ sáu. Có tiếng trống báo giờ vào lớp. Tôi nghe, từ một nỗi nhớ rất sâu, nhưng không rộn ràng vì dư âm đã tan vào đất, lắng vào lòng, hốt mê hốt giác hơn 40 năm…



Đêm Hồ Trường Quốc Học

Trong lịch sử 100 năm của trường Quốc Học, không biết có thời kỳ nào mà bảng kết quả kỳ thi tú tài 2 lại có một tác dụng mang tính quyết định cho số phận con người mạnh mẽ đến như thế. Mảnh bằng không chỉ là dấu hiệu của học vấn mà còn là một quyết định gần như tối hậu cho một thanh niên tuổi mười tám, đôi mươi, được tạm yên thân hay phải bị nhổ bật cả gốc rể như thời kỳ của tôi vào những năm giữa thập niên 1960. Khi tấm bảng niêm yết danh sách thi Tú Tài vừa treo lên, cũng là lúc chúng tôi chuẩn bị đổi đời: Vào đại học chuyên nghiệp, đại học tự do; vào quân truờng rồi ra chiến trường hay chẳng vào đâu cả… đều có nghĩa là bước vào một cuộc đời, một cách sống hoàn toàn mới mẻ.

Tôi tình cờ được dự buổi họp mặt học sinh Quốc Học mùa Hè tại nhà Nguyễn Thành Nhân gần sân vân động Tự Do. Thật ra, đây là một cuộc họp mặt của một nhóm thân hữu học sinh lớp 12 Quốc Học với sự tiếp tay của những người đẹp Đồng Khánh, Kiểu Mẫu, Bán Công, Mai Khôi… Chủ lực là các gã tú đậu thết đãi an ủi mấy chàng tú hỏng.

Đây là cuộc họp mặt học trò làm tôi nhớ đời vì không ngờ sau đêm chia tay ấy, có đứa đi lính bên nầy, đứa trốn vào bưng biền đi bộ đội bên kia. Nhiều đứa trong “Đêm Hồ Trường” hôm đó, ngất ngưởng men rượu Thiên Tường, rượu Làng Chuồn nằm gác chân lên nhau mà ngủ, sớm mai chia tay đầy lưu luyến. Nhưng rồi qua nhiều biến cố dồn dập trên quê hương, có những đứa bạn gần gũi cùng ngồi chung bàn, chung lớp ở Quốc Học nhưng lại không chung hoàn cảnh và chí hướng Chiến tranh bão liệt lan ra khắp nơi, chỉ còn chừa lại cái lõi thành phố. Thơ xanh êm ả pha mùi lãng mạn sướt mướt thời tiền chiến, cũng như thơ lữa của Quang Dũng hừng hực khí thế kháng chiến chống xâm lăng… đã trở thành quá khứ. Vẻ mệt mỏi, trăn trở, than van pha mùi triết lý về quê hương đau khổ và thân phận làm người như Jaspers, Sartre, Remarque, Trịnh Công Sơn, Phạm Duy… trở thành khuynh hướng thời thượng. Bài thơ được ưa chuộng nhất trong các tiệc rượu thời nầy là bài Hồ Trường của Nguyễn Bá Trạc có lẽ vì bên cạnh hơi hướm lãng tử và trăn trở, Hồ Trường còn có thêm niềm bi phẫn của kẻ sĩ sinh chẳng gặp thời.

Gã nghệ nhân được ưa chuộng và nhớ đời trong đêm họp mặt hôm đó là Lê Văn Thôi, người vừa diễn, vừa ngâm bài Hồ trường sống thực và sống động đến nỗi 40 năm sau còn có người nhắc lại “Đêm Hồ Trường”.

Thôi là con nhà Huế toàn ròn nên mới có tiếng ngâm thơ Bình Trị Thiên mềm và ướt vì có tẩm sương núi, ướp gió Lào như mây trên núi Bạch Mã, nhưng cũng buồn xé ruột như điệu ca Hời Nam Ai.

Một buổi tiệc học trò mang tiếng là họp mặt nhưng thực sự là để chuẩn bị chia tay. Mỗi cuộc chia tay trên xứ Huế thường mang một vẻ gì u ẩn nao lòng vì tâm Huế bao la nhưng tay Huế nhỏ quá, không đủ bao bọc cho bầy con tứ xứ trở về. Đã ra khỏi Huế thì đừng mong ngày về mà hãy chuẩn bị tâm trạng nhớ Huế, trông vời quê mẹ. Những người trẻ có mặt trong đêm Hồ trường bịn rịn tìm nhau vì cảm nhận được điều đó.

Đêm xuống đã sâu, nhưng không ai muốn chia tay. Sợ chia tay không có ngày gặp lại. Bởi vậy tiếng ngâm thơ của Thôi trở thành chất keo gắn những nỗi bâng khuâng dính chùm trong cảm xúc.

Sau lời giới thiệu của Nhân, trong sự im lặng chờ đợi, tiếng cười vỡ vụn của Thôi bỗng vang lên. Nửa như đau xót, nửa như hào hùng trêu chọc. Con nhà hội họa hóa trang thật tài tình. Khuôn mặt thư sinh của Thôi, thêm mấy chòm râu, điểm những nét nhăn hằn lên trên trán, với cái khăn mỏ quạ và chiếc áo dài đen bạc màu mượn của bác cai trường đã biến Thôi thành hình ảnh một kẻ sĩ thời xa xưa sinh chẳng gặp thời. Một tay ôm bầu rượu, tay kia đặt trên đốc kiếm. “Hồ rượu” và “bảo kiếm” đều là các dụng cụ hóa trang vở kịch Tiếng Gọi Lam Sơn của Trần Quang Long diễn trong trại Hè học sinh Quốc Học còn sót lại. Sau tràng cười kinh động là tiếng kiếm rút ra khỏi vỏ “rít” lên qua cửa miệng của Thôi. Đường kiếm múa lấp loáng mê cuồng như đang nhịp theo một bản cuồng ca. Những bè bạn thân quen không ai ngạc nhiên với đường kiếm bay bướm của Thôi vì biết gã là một sư huynh của phái Nga Mi Bãi Dâu; nhưng đối với khách lạ thì căng mắt ngồi nhìn một cách khoái chí.

Bỗng tráng sĩ nhà họ Lê im bặt, tra kiếm vào vỏ, rồi cúi gầm nhìn đăm đăm vào hồ rượu. Tiếng ngâm như từ vực sâu cuồng nộ, khí khái cất lên:

Trượng phu sao không xé gan bẻ cật,
Phù cương thường hà tất tiêu dao!

Tiếng ngâm thơ Bình Trị Thiên đanh như vết chém. Những âm sắc vút lên cao nhọn hoắc, rơi dần lảo đảo với một chút ỡm ờ và giọt xuống:

Bốn bể lưu lạc tha hương,
Trời Nam nghìn dặm thẳm,
Non nước một màu sương.

Kẻ sĩ lại ngước lên nhìn trời như đang cầu xin một ân điển, nhưng rồi hai tay buông xuống, vuốt nhẹ mái tóc đã bạc màu. Trời thì quá xa mà kẻ sĩ đã về chiều nên cũng đành đành thú nhận:

Chí chưa thành,
Danh chưa đạt,
Trai trẻ bao lăm mà đầu đã bạc,
Trăm năm thân thế bóng tà dương!

Im lặng!... Một thoáng yên ắng lắng sâu trong ánh đèn dầu lay lắt. Tráng sĩ trỗi dậy, gươm tuốt trần, rượu đầy hồ, tiếng ngâm ngân lên rộn ràng, xôn xao giữa tâm hồn bão nổi:

Vỗ gươm mà hát,
Nghiêng bầu mà hỏị
Thiên địa man man,
Ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường!

Không rõ Thôi đang diễn tuồng hay đang ngất ngưởng trong những khoảnh khắc phù du mượn tạm một vai trò để sống. Nhưng lạ lùng là đôi mắt đam mê đầy hào khí của Thôi lấp lánh tình bầu bạn, chiếu thẳng tới nhãn quan từng người có mặt. Tiếng ngâm thơ dạt dào và hưng phấn, nhưng cũng dằng dặc nỗi buồn của kẻ đi đường xa chưa gặp bạn đồng hành:

Hồ trường!
Hồ trường ta biết rót về đâu?
Vẫn im lặng. Thôi giương cao bầu rượu và nối đuôi theo tiếng ngâm thơ mời gọi:
...rót về đâu? Ta biết rót về đâu?
Có tiếng đáp thật bất ngờ:

- Rót về đây đi tráng sĩ ơi!

Đó là tiếng của Chiêu Hà “Vélo Solex”, cô bé Đồng Khánh “mode” nhất ở đường Phan Bội Châu, nổi tiếng như cồn vì mái tóc ngắn “đờ mi gạc xông” rất có duyên với dáng Tây Phương, học võ Karate với giáo sư Ngô Đồng và cỡi xe Vélo chạy phon phon trên đường phố Huế.

Mọi người quay lại vừa khi Thôi nghiêng hồ rượu rót vào ly nước chanh đã cạn của Chiêu Hà. Rồi Thôi nghiêng hồ rượu và khoát tay mời anh em cùng uống. Người đẹp Đồng Khánh đã đưa ly lên môi, thì những người hùng Quốc Học không còn lý do e dè hay từ chối. Tất cả cùng uống. Tiếng ngâm thơ lại nổi lên nửa như thách đố, nửa như mời gọi trong nỗi trần tình đầy cảm khái:

Rót về Đông Phương, (ư) ?
Nước bể Đông chảy xiết sinh cuồng lãng!
Thôi lại đưa cao hồ rượu quá đầu, hỏi tiếp:
- Hồ trường... Hồ trường ta biết rót về đâu… Rót về đâu?

Có nhiều tiếng đáp một lần, cả tiếng trong veo của người đẹp đâu đó đầy phấn chấn:

- Rót về đây!

Thôi lắc đầu theo tiếng thơ chảy xiết:

- Rót về Tây phương, (ư)?

Mưa Tây sơn từng trận chứa chan!

Và tiếp:

-...biết rót về đâu?

Lại thêm năm ba cái ly đưa lên. Thôi rót đầy rượu cho từng người rồi chỉ tay về Bắc:

- Rót về Bắc phương, (ư)?
Ngọn Bắc phong vi vút cát chạy, đá giương!

Âm hưởng giọng ngâm thơ của Thôi rung cảm tới mức mọi người đều đứng dậy, nâng ly uống cạn trong tiếng thơ hướng về Nam:

- Rót về Nam phương, (ư)?

Trời Nam mù mịt!

Hồ rượu trong tay Thôi lại được châm đầy và rót cạn tới bao nhiêu lần nhưng niềm vui pha men đắng của sự sum họp tạm bợ trong cuộc chiến vẫn tràn trề, mỗi lúc một cuồn cuộn dâng lên trong cơn mê hồ trường. Dáng đi của tráng sĩ Thôi đã ra chiều chếch choáng. Thôi lấy hết tuyệt kỹ đểâ ngâm tràn những giọt thơ còn lại:

Có người quá chén như điên như cuồng!
Nào ai tỉnh, nào ai say,
Chí ta ta biết, lòng ta ta haỵ
Nam nhi sự nghiệp ư hồ thủy,
Hà tất cùng sầu đối cỏ câỵ

Tiếng ngâm thơ đã dứt một thoáng qua rồi mà không khí vẫn lặng im ngây ngây. Không hiểâu thơ đang say lòng người hay người đang say men rượu bốc thành thợ. Cho đến khi hồ rượu cạn tuột khỏi tay người cuồng sĩ, rơi xuống vỡ tan mới chợt nghe tiếng vỗ tay kéo dài như luyến tiếc...

Thiên địa man man, ai người tri kỷ... nên chúng tôi không còn dịp gặp lại nhau ở quê nhà. Những thằng bạn “Hồ trường” một thuở gặp nhau ở Cali. Nguyễn Trát, Hoàng Kính, Nguyễn Lập, Phạm Tuế, những thằng bạn chân quê của tôi qua Mỹ theo diện H.O. Tôi và Mảng Bảo Thạnh chèo ghe đi chui qua biển. Đặng Văn Tuấn và Lê thị Hoa du lịch Mỹ bằng máy bay. Bạn cũ gặp lại ở quê người, điểm lại những khuôn mặt trong ngày hội ngộ Hồ Trường 40 năm trước thì hơn một nửa đã qua đời vì tử trận, chiến tranh, mất tích, bệnh tật, tai nạn bất ngờ…

Rót về đâu? Sự bâng quơ lạc lối một thời vẫn còn đó như một vấn nạn chung thân của kiếp người. Hơn một nửa bạn bè đã về đất, nhưng có mấy người biết “rót về đâu” để hồ rượu đời khỏi tràn be giọt xuống sông Hương, chảy về Nam Hải. Hình như vẫn còn một nơi an toàn nhất để rót cho đầy, uống cho cạn hết Hồ trường mà vẫn không say; hay say mà không cần uống: Đó chính là lòng mình. Có ai đã bưng hồ rượu để rót về lại lòng mình để tìm lại chính mình và kết mình làm tri kỷ. Con rồng, con phụng cao sang tận đỉnh trời, nhưng phải triều nguyệt hay tranh châu để mượn ánh sáng mặt trời, mặt trăng soi rọi cho mình. Đời sống Việt Nam chỉ có một con chịu đốt chính mình để làm ra ánh sáng. Đó là con cúi bằng rơm với thân tâm nhẹ nhàng, rỗng lặng và vô ngã.

Không có nhận xét nào: