Chủ Nhật, 15 tháng 2, 2009

Tình Huế


Lê Quang Kết

Huế là đất một chuyện tình. Lịch sử hành phương Nam của tiền nhân gặp khúc quanh. Vua Trần anh minh đã quyết định gả con gái yêu cho Chiêm vương đổi lấy hai châu Ô và Rí. Và Huyên Trân công chúa đã “ngàn dặm ra đi”- vạch đường thiên lý để Đại Việt hôm nay dài mãi tận đất mũi Cà Mau.Tình Huế! Ôi đẹp và thơ! Chàng trai Hà Tĩnh Huy Cận thuở trai trẻ đã từng theo học Quốc Học- Huế; nhân ngày kỷ niệm thành lập trường, nhà thơ viết gửi Huế yêu: “ Huế, Huế, ai bày chi xứ Huế/ Mà tình vương mãi dứt không ra”. Tôi cũng là đứa con Huế tha phương- dễ mấy chục năm rồi. Hình như những kẻ xa quê đều có một góc yêu thương nào đó để nhớ và thôi thúc bước chân về. Tình Huế – với tôi cũng vương mãi như lời thơ Huy Cận.

Tình Huế- tính cách Huế, xưa nay đó là sự hài hòa giữa con người với tự nhiên. Huế hài hòa trong kiến trúc mà nhiều người gọi là thành phố “ Nhà vườn- Làng vườn- Chùa vườn”. Những nhà vườn tiếng tăm vẫn hiện hữu trong lòng những ai đến Huế : Vườn bà An Chi ở Kim Long; vườn nhà cụ Đô dưới Gia Hội; hay Lạc Tịnh viên phủ thất cô công chúa xưa trong Thành Nội… Rồi làng vườn: Phường Đúc, Kim Long, Bao Vinh, An Lăng, Chợ Cống vẫn còn đó sừng sững - bảo lưu truyền thống đất vườn Huế. Câu thơ của Hàn Mặc Tử “ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” có dáng dấp một Vĩ Dạ vườn. Trăm ngôi chùa Huế, mỗi chùa là mỗi sắc vườn- người lữ hành nặng gánh lo toan, một lần vãng cảnh, nghe lòng thanh thản xua đi bao nỗi muộn phiền, thấp thoáng một chút lắng sâu từ tâm hỉ xả với đời với người. Con người trong kiến trúc không thách đố thiên nhiên. Huế không có và không thể có những công trình đồ sộ, chọc trời như Sài Gòn. Nếu ai đó có ý nghĩ biến Huế thành đô thị siêu tốc thì điều đó vô nghĩa và ảo tưởng với nghệ thuật kiến trúc. Hình như chủ nhân vườn Huế chẳng quan tâm nhiều đến lợi ích kinh tế. Họ chăm chút mảnh vườn để được sống bình dị, ung dung, hòa mình với thiên nhiên, cây cỏ- tâm cảm lạc quan, bình thản, thấp thoáng nét tự tại đậm chất nhân văn Huế.

Tình Huế là nhẹ nhàng trong lựa chọn sắc màu. Người Huế chúa ghét những gam màu lòe loẹt. Họ thích gam màu nhạt. Màu nặng như đỏ chót, xanh lè, vàng rộm, đen thui, tím ngắt phản cảm với tâm hồn Huế. Sắc thái của tình Huế là xanh lơ, vàng mơ, hồng nhạt hay tím phớt… Nếu giờ đây phụ nữ thích biến tấu hoa trên áo dài thì người Huế sẽ không thích hoa to hoa tương phản mà là hoa nhỏ- chỉ điểm nhẹ vài bông, đậm hay nhạt hơn màu nền áo một chút, chỉ thế thôi! Tà áo dài thướt tha, chiếc nón bài thơ dịu ngọt đã theo cô gái Huế dù đi đâu về đâu? Tan trường tóc thề trước gió, vành nón nghiêng che trắng cả Tràng Tiền mấy nhịp. Trong trang phục áo dài truyền thống ấy, cô gái Huế không mặc quá dài hoặc quá ngắn. Đường xẻ tà ở hông cũng vậy, không quá cao để hở hang hớ hênh nhưng cũng không che kín bịt bùng. Đừng tưởng gái Huế không ưa khoe những đường nét quyến rũ của cơ thể trước đàn ông, chỉ có điều họ muốn phô một cách kín đáo tế nhị mà thôi.

Ẩm thực của tình Huế là gia vị. Các món ăn Huế đều thế, gia vị là thứ tối cần. Nhiều thứ nhưng mỗi thứ một ít thôi, phải biết gia giảm mới thiệt là Huế. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã liệt kê tới mười mấy thứ trên đôi quang gánh của o cơm hến Huế. Nhiều món ăn dân dã Huế đã trở thành văn hóa ẩm thực của cả nước: bún bò, bột lọc, bánh khoái, bánh canh, cơm hến, bánh nậm, bánh bèo… Những đứa con Huế xa quê, đi tới mô cũng cố giữ ẩm thực mang hương vị quê nhà mà nghe đau đáu nỗi nhớ quê xa. Người Huế thích ăn cay. Đúng, bữa cơm Huế không thể thiếu ớt. Cay mới thích- mới khoái khẩu. Người ta kể có Huế Kiều xa xứ bay về ngồi ăn một tô bún bò An Cựu, vừa ăn vừa hít hà xuýt xoa, mồ hôi mồi kê tháo ra ướt cả áo, miệng cười hả hê- đã quá Huế ơi!

Tình Huế là chừng mực trong giao tế ứng xử thường nhật. Ngày giỗ tết hội hè bạn thử quan sát xem? Không thân, không sơ, không lạnh nhạt, không vồ vập – tất cả là nhẹ nhàng ý vị. Mừng vui ngày hạnh ngộ họ cố nín trong lòng chẳng lộ ra ngoài. Gặp nhau mà ôm chầm lấy nhau, rối rít, la hét ầm ỉ, làm toáng cả lên không phải là tính cách Huế. Mời khách, mời bạn dùng bữa cũng thế thôi, chân tình mời một hai lần. Không chào mời theo kiểu lấy lòng và chẳng ồn ả nhiều lời để thành sáo rỗng- ngoài miệng thì cố đẩy đưa mà bụng chẳng ưng tí nào.

Tình Huế là đời sống nội tâm sâu lắng, không ồn ào khoa trương. Khúc Nam Ai, Nam Bình; làn điệu hò Mái nhì, Mái Đẩy trên dòng Hương Giang chính là nét tĩnh tại, nội tâm của người Huế. Ai đó bảo rằng: Giai điệu âm nhạc Chăm đã để lại nét buồn thương cảm trong tâm hồn Huế- hay màu tím kia là màu buồn Huế. Phải vậy chăng? Ai mà chẳng có lúc buồn? Buồn Huế không hẳn buồn lòng mà còn là cái sâu kín tận đáy lòng. Có nhà thơ đã gọi tím Huế là màu của yêu thương trong sáng và thầm kín. Với phụ nữ Huế, tím còn là màu của đức hạnh thủy chung. Vả chăng nếu có buồn cũng là chuyện muôn đời – hỉ nộ ái ố sầu bi- nhưng chắc rằng buồn Huế không là nỗi buồn của bi lụy, đau thương…

Chàng trai Hà Tĩnh đã mang tình Huế đi đến cuối đời và trước đó là chàng trai xứ Quảng. Anh vượt đèo Hải Vân ra thi để rồi “ Thấy cô gái Huế chân đi không đành”. Tán tỉnh để chinh phục trái tim một cô gái Huế cũng khó- thật khó. Tôi có người bạn lấy vợ Huế kể chuyện xưa: Hồi học ở ngoài phải lòng một cô gái Huế, mất ba năm để làm quen và thêm ba năm cho tình yêu hò hẹn, vị chi là sáu năm để cưới nàng làm vợ. Năm rồi vợ chồng anh tròn ba mươi năm ngày cưới. Giọng hóm hỉnh, anh mượn chuyện nhà hiền triết xưa Socrate để nói về người vợ yêu quý của mình. Nhà triết học tài danh Socrate có một bà vợ dữ dằn độc ác. Bà thường mắng nhiếc thậm tệ và thậm chí đánh chồng- kể cả khi có mặt bạn bè ông. Bao năm theo thầy dùi mài kinh sử, có người học trò yêu đã phải buột miệng chất vấn thầy : “Bạch thầy! Con phải thế nào đây?Theo ý thầy, con nên lấy vợ hay không?”. Socrate mỉm cười thốt lên: “ Trong mọi trường hợp con đều phải lấy vợ, nếu gặp người vợ hiền con sẽ là người hạnh phúc còn nếu gặp phải một bà vợ ghê gớm ác độc thì con sẽ là một triết gia…”. Rồi anh cười hả hê đắc ý: Nếu trên đời này các bà vợ đều là người Huế thì sẽ chẳng có đấng mày râu nào thành triết gia cả. Không hiểu lúc đó nhân loại sẽ ra sao?

Lê Quang Kết
Trường Trung học kỹ thuật và dạy nghề Bảo Lộc
ĐT : 063. 3717123 – DĐ : 0907. 615. 510

Không có nhận xét nào: